Sư đoàn Thủy quân lục chiến có rất nhiều tiểu đoàn tác chiến, nhưng ai cũng ao ước mình là một chiến sĩ trong Tiểu đoàn Trâu Ðiên. Tiểu đoàn Trâu Ðiên cũng đã được chỉ huy qua rất nhiều vị tiểu đoàn trưởng xuất sắc để trở thành một đơn vị ưu tú nhất của QLVNCH.
--------------------------------
Nguyễn Xuân Phúc là một
trong những vị chỉ huy xuất sắc đó, anh đã tốt nghiệp á khoa khóa 16
Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Ngay trong thời gian thụ huấn anh đã là
tiểu đoàn trưởng trong Hệ thống tự chỉ huy, được khóa đàn em nể phục với
biệt danh Robert Lửa.
Ai đã từng một thời là người lính Mũ Xanh
thì không thể nào không biết hoặc không nghe về người hùng Nguyễn Xuân
Phúc. Anh là một cấp chỉ huy đạo đức, thông minh, tài ba tại chiến
trường và cũng là chiến hữu thân thiết nhất đối với tất cả mọi thuộc
cấp, anh đã dành trọn cuộc đời cho binh nghiệp, đã chọn và sống hết mình
cho quân đội và cho tổ quốc Việt Nam.
Từ lâu đã có quá nhiều bài
viết nói về anh. Những bài viết của nhà văn Phan Nhật Nam, của Mũ Xanh
Nguyễn văn Phán, của Trần văn Loan và đặc biệt nhất là bài viết mới đây
của nhà văn nữ Ngọc Thủy được đăng tải trên các webside Thủy quân lục
chiến. Chị Ngọc Thủy đã trải hết tấm lòng biết ơn của người em gái hậu
phương về các anh chiến sĩ tiền tuyến, trước đây đối với người hùng Lê
Hằng Minh và gần đây nhất về chiến sĩ Lý Tống. Riêng bài viết về Nguyễn
Xuân Phúc được chị sưu tầm một cách rất công phu và đã mang đến cho
người đọc những chi tiết thích thú bất ngờ. Lẽ dĩ nhiên mỗi bài viết có
cách nhìn khác nhau, tùy theo kỷ niệm và sự trân trọng của các tác giả
đối với anh.
Là một chiến sĩ Mũ Xanh và cũng là người sống nhiều
năm cùng Tiểu đoàn 2/TQLC với anh, tôi xin bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa
về việc làm vô cùng cao quí của tất cả những vị nói trên.
Nhiều
bạn bè xa gần đã hỏi tôi tại sao bạn là người dành hết đời binh nghiệp
của mình tại Tiểu đoàn 2/TQLC từ khi mới ra trường cho đến khi là thiếu
tá tiểu đoàn phó, đã từng là đại đội trưởng, là trưởng ban 3 suốt nhiều
năm trời; đặc biệt nhất là thời gian niên trưởng Nguyễn Xuân Phúc làm
tiểu đoàn trưởng mà lại không có một kỷ niệm nào để viết về anh.
Sự
thật thì tôi là một trong những người hiếm muộn còn lại đã sống và đã
từng có quá nhiều điều để viết về anh. Bên cạnh những hào quang sáng
chói của một cấp chỉ huy gan dạ tài ba, niên trưởng Nguyễn Xuân Phúc
cũng có một đời sống bình thường như bao nhiêu người khác, anh đã sống
hết lòng với anh em, chiến hữu, bạn bè, biết nghĩ đến những nỗi khó khăn
của thuộc cấp. Có những lúc thật uy nghiêm, trang trọng, xa cách, nhưng
cũng có lúc thật thân mật, gần gũi như anh em trong gia đình.
Bài
viết nầy xin gửi đến tất cả chiến hữu xa gần cũng không ngoài mục đích
và ý nghĩa đó. Ðể tôn trọng sự vắng mặt của một người đã khuất và cũng
để ghi lại những kỷ niệm trong những năm tháng sống và làm việc dưới
quyền của anh, tôi sẽ kể lại những sự việc có thật mà tôi đã từng biết
hoặc liên hệ ít nhiều như là một sự tưởng nhớ về người niên trưởng đáng
kính nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình.
Cuối tháng 11 năm
1965, khóa 20 Ðà Lạt ra trường, 25 tân sĩ quan tình nguyện về phục vụ
binh chủng Thủy quân lục chiến. Tất cả được phân bổ cho các đơn vị tác
chiến, trong đó 5 anh em chúng tôi gồm Tiền, Chính, Minh, Kiệt, Liêm, về
trình diện hậu cứ Tiểu đoàn 2 tại Tam Hà Thủ Ðức. Lúc bấy giờ tiểu đoàn
vừa mới hành quân Ðức Cơ về, Thiếu tá Lê Hằng Minh cũng vừa nhận chức
vụ tiểu đoàn trưởng sau khi đã theo học khóa Tham mưu cao cấp tại Hoa
Kỳ. Nguyễn Quốc Chính nhỏ nhất về Đại đội 4 do Trung úy Nguyễn Xuân Phúc
khóa 16 làm đại đội trưởng, Trung úy Trần văn Hợp khóa 19 đại đội phó,
Nguyễn Tuấn Kiệt về Đại đội 3 do niên trưởng Nguyễn Ngọc Ðiệp khóa 17
đại đội trưởng, tôi, Phạm văn Tiền về Đại đội 2 do Đại úy Nguyễn văn Hay
tự “Hay Chùa” làm đại đội trưởng kiêm tiểu đoàn phó, Nguyễn Quang Minh
và Hoàng Như Liêm, 2 tên tuổi lớn nhất về Đại đội 1 do Trung úy Trần Kim
Hoàng khóa 17 làm đại đội trưởng. Bọn tôi thường cho rằng Chính là
người may mắn nhất vì được 2 ông khóa đàn anh giúp đỡ hết mình, chiều
nào cũng vậy, mỗi lần có phép về Sài Gòn Chính thường được ngồi chễm chệ
trên chiếc xe Jeep do chính đại đội trưởng lái, còn bọn tôi thì phải
vất vã bám vào các chiếc xe “lam chiều”, nhiều khi phải cuốc bộ vài ba
cây số.
Sau hơn tháng trời dưỡng quân tại hậu cứ, tiểu đoàn có
lệnh hành quân bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn vùng Tân Thuận Ðông Long
Kiển. Thiếu úy Nguyễn Quang Minh đã tử thương đầu tiên tại mặt trận nầy,
còn Thiếu tá Lê Hằng Minh thì bị một viên đạn xuyên qua đỉnh của chiếc
nón sắt tuy nhiên vẫn bình yên, và cũng từ đây lệnh bắt buộc phải đội mũ
sắt khi đi hành quân được áp dụng triệt để, chúng tôi không còn dịp đội
nón “bo vành” rất cao bồi như kiểu cao bồi Texas khi đi hành quân nữa.
Mặc dầu vậy hình ảnh một Trung úy Nguyễn Xuân Phúc với chiếc nón bo đội
trên đầu lúc đơn vị ở hậu cứ hoặc đi phép về Sài Gòn vẫn là hình ảnh ăn
khách nhất đối với anh em chúng tôi.
Cuối tháng 2, 1966 Tiểu đoàn
2 tham dự hành quân với Chiến đoàn A do Trung tá Nguyễn Thành Yên chỉ
huy, trong cuộc xung phong vào An Quý, Cự Tài tại vùng Bồng Sơn Tam
Quan, tiểu đoàn đã bị thiệt hại khá nặng về số binh sĩ tử vong cũng như
bị thương. Trung úy Ðiệp đại đội trưởng Đại đội 3 đã tử thương tại trận
nầy, riêng Đại đội 4 do anh Phúc chỉ huy đã chiếm mục tiêu bên sườn
phải, buộc địch phải chém vè tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị còn
lại ồ ạt xung phong giành chiến thắng. Danh xưng Trâu Điên cho đơn vị
cũng phát xuất từ trận đánh lịch sử nầy.
Chỉ 2 tháng sau đó tiểu
đoàn lại có mặt tại Quảng Ngãi cùng với Tiểu đoàn 3/TQLC truy kích địch
tại núi đồi Ba Gia và lần hành quân nầy anh đã phải lòng một người đẹp
tại thành phố nhỏ bé nầy, và một cuộc tình “anh tiền tuyến, em hậu
phương” đã bắt đầu, kết quả cháu Ðức con anh chị đã được ra đời, cháu
rất đẹp trai có cái đầu thật to và đôi mắt sáng giống bố được mang về
cho ông bà nội săn sóc, còn anh chị chẳng bao giờ tiến đến hôn nhân.
Thỉnh thoảng sau nầy chị thường hay đến thăm anh tại hậu cứ sau mỗi lần
hành quân về. Nghe nói chị đã lập gia đình với một anh dược sĩ nào đó,
còn anh vẫn là một cấp chỉ huy độc thân thứ thiệt ở vậy nuôi con.
Trong
biến cố Phật giáo miền Trung 1966, anh vẫn là một trong những vị đại
đội trưởng giỏi của tiểu đoàn được đặc cách đại úy tại mặt trận, sau đó
anh đã bị thương trong trận độn thổ phục kích của tiểu đoàn tại cây số
23 quận Phong Ðiền vào ngày 29-6-1966, cùng lúc với Thiếu tá Lê Hằng
Minh đã tử thương với nguyên trung đội cảm tử của mình.
Năm 1967
anh về làm tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5/TQLC, sau khi mãn khóa học tham mưu
tại Ðà Lạt. Anh đã nổi tiếng trong trận chiến thắng Rạch Ruộng để rồi
tháng 4 năm 68 lên thiếu tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6/TQLC tham dự
mặt trận Tết Mậu Thân đợt 2 tại Sài Gòn, anh lại bị tai nạn, sau thời
gian điều trị lại về làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Công vụ. Đến tháng 6
năm 1969 về lại Tiểu đoàn 2 thay thế chức vụ tiểu đoàn trưởng từ Trung
tá Ngô văn Ðịnh bị thương.
Thời gian nầy tôi vắng mặt tại tiểu
đoàn vì đang theo học khóa Basic School tại Hoa Kỳ. Về trình diện lại
tiểu đoàn vào tháng 8 trong lúc đơn vị đang hành quân tại Chương Thiện.
Chiếc
trực thăng Chinook mang tôi từ phi trường Tân Sơn Nhất vào vùng hành
quân Gò Quao, kinh Xáng Cụt với hơn 20 tân binh để bổ sung cho các đại
đội vì tiểu đoàn vừa chạm địch nặng trước đó mấy ngày. Gặp lại anh sau
nhiều năm tháng xa cách lòng tôi cảm thấy sung sướng và an tâm vô cùng
vì rồi đây tôi sẽ được chỉ huy bởi một đàn anh đáng kính. Anh cho tôi
biết là chính anh đã xin cho tôi về lại tiểu đoàn để chuẩn bị nhận chức
vụ đại đôi trưởng. Trong buổi cơm chiều hôm đó, tôi có tâm sự rằng các
bạn khác của tôi may mắn quá, được về “khối bổ sung” để chờ đợi huấn
luyện Tiểu đoàn 7/TQLC tân lập, tụi nó có thời gian du hí ở Sài Gòn quá
đã!
Câu chuyện đang vui vẻ tôi liền bị phản ứng của anh: “Nếu ông
muốn thì ông cứ làm đơn xin về, tôi không ngờ tôi có một đàn em quá tệ
như ông”. Chiều hôm đó mặc dầu trời đang nắng nóng mà tôi cảm thấy lạnh
cả người. Là một sĩ quan trẻ còn ham chơi, vả lại người miền Nam tánh
tình bộc trực nghĩ sao nói vậy chắc chắn đã làm buồn lòng anh vì đã chờ
đợi tôi về!
Những ngày kế tiếp tôi vẫn ở tại bộ chỉ huy tiểu
đoàn, chiều nào cũng vậy tôi được anh cho ăn cơm chung và những khi rỗi
rảnh anh thường hay hỏi về hoàn cảnh gia đình tôi, về Minh, về Kiệt, về
Chính, những thằng bạn cùng khóa đã hi sinh; đặc biệt nhất mỗi lần nhắc
đến Chính là tôi thấy đôi mắt anh đỏ hoe hình như muốn khóc. Chính đã hi
sinh trong cuộc hành quân trực thăng vận vào trưa ngày 31-12-67 khi giữ
chức vụ đại đội phó Đại đội 1, trong lúc điều động các trung đội tiến
chiếm mục tiêu tại kinh Cái Thia quận Giáo Ðức tỉnh Ðịnh Tường, thời
gian đó anh đã rời khỏi tiểu đoàn rồi. Còn Nguyễn Tuấn Kiệt thì mất
trước trận tiểu đoàn bị phục kích 2 tuần lễ tại mặt trận Gia Ðẳng bắc
Quảng Trị. Giàn đại đội trưởng của Tiểu đoàn 2 bây giờ toàn là những anh
em cũ. Trung úy Lâm Tài Thạnh Đại đội 1, Đại úy Vũ Đoàn Doan Đại đội 2,
Đại úy Trần văn Hợp Đại đội 4, Đại úy Trần văn Thương Đại đội 3, Trung
úy Chung văn Nghiêm Đại đội chỉ huy, Thiếu tá Nguyễn Kim Ðể tiểu đoàn
phó.
Một đêm tối trời cánh B do thiếu tá tiểu đoàn phó chỉ huy bị
tấn công dữ dội, ngay loạt pháo kích bằng súng cối 82 ly đầu tiên của
địch đã có 5, 7 binh sĩ bị thương, anh Nguyễn Xuân Phúc đang xin hỏa lực
yểm trợ pháo binh của chi khu Gò Quao. Chẳng biết phải làm gì tôi vào
phòng trực của Trung úy Nguyễn Kim Thân ban 3 để theo dõi tình hình,
thiếu tá cố vấn Mỹ thì ngơ ngác cứ ôm máy truyền tin chờ lệnh để báo cáo
qua hệ thống cố vấn lữ đoàn. Ông ta cứ đi qua đi lại muốn biết những gì
xảy ra mà sao nghe nhiều tiếng súng nổ từ hướng các đại đội, còn bọn
tôi và Thân chẳng dám nói một lời nào nếu như chưa có lệnh.
Sau
đó vài phút bầu không khí có vẻ dịu dần khi anh ra lệnh cho bọn tôi nhờ
cố vấn Mỹ giúp đỡ liên lạc tản thương. Như được nhắc nhở tới, ông ta
mừng lắm, chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ sau thì những chuyến tản
thương được bắt đầu, mọi việc đều bình thường trở lại vào sáng ngày hôm
sau.
Chỉ ít ngày sau tôi được lệnh đi thực tập với Đại đội 1 của
Trung úy Thạnh. Chuyến hành quân kỳ nầy không chạm trận lớn, nhưng đa số
bị thiệt hại vì mìn bẫy và bị du kích bắn tỉa hơi nhiều. Tiểu đoàn lại
được lệnh về nghỉ dưỡng quân hậu cứ sau đó, tôi được lên đại úy vào
tháng 10 trong danh sách thăng thưởng thường niên của Bộ Tổng tham mưu
và được tiểu đoàn cho lệnh đứng ra thành lập đại đội mới, lấy tên là Đại
đôi 5, được góp nhặt lại từ mỗi đại đội khác trong tiểu đoàn 1 trung
đội, còn Đại đội 3 Tiểu đoàn 2 sẽ do Trung úy Nguyễn Xuân Quang khóa 19
Thủ Ðức dẫn về trình diện Tiểu đoàn 7 tân lập, Đại úy Trần văn Thương
thuyên chuyển về thành lập Đại đội Viễn thám sư đoàn.
Tháng 5 năm
1970 tiểu đoàn được tăng phái hành quân vùng mật khu Năm Căn quận Cái
Nước. Ðây là vùng sông nước chằng chịt được phối hợp di chuyển bằng lực
lượng hải chiến Hoa Kỳ, chúng ta đã khám phá và tịch thu khá nhiều kho
vũ khí cùng vô số tài liệu mật của địch, địch đã cố tình né tránh nên
suốt mấy tuần hành quân mà chẳng có cuộc chạm súng nào, tiểu đoàn được
lệnh di chuyển gấp lại Cần Thơ bằng GMC và từ đây về Châu Ðốc, bằng
những chiếc HQ của Hải quân mang chúng tôi thẳng tới Neak Lương,
Campuchia vào sáng sớm ngày hôm sau. Lần hành quân nầy chúng tôi trực
thuộc Lực lượng đặc nhiệm thủy bộ 211. Tư lệnh phó kiêm lữ đoàn trưởng
Lữ đoàn A do Đại tá Hoàng Tích Thông chỉ huy từ ngày 9 tháng 5 đến 30
tháng 6 năm 1970, cùng tham dự còn có 2 Tiểu đoàn 4 và 7/TQLC, nhiệm vụ
giải tỏa áp lực đang đè nặng tại thị trấn Preyveng.
Tiểu đoàn 2
đổ bộ thẳng vào phía tây thị trấn bằng trực thăng, thành phần còn lại di
chuyển bằng xe từ Ban Nam lên để tiến chiếm mặt đông và đông bắc, Đại
đội 1 của Lâm Tài Thạnh và Đại đội 5 của tôi được đổ bộ cùng với bộ chỉ
huy cánh B đầu tiên vào giữa một cánh đồng trống đối diện với dinh tỉnh
trưởng khoảng cách chừng hơn 1 km. Bộ chỉ huy của thành phố vẫn còn cố
thủ mặc dầu bị bao vây nhiều ngày. Để tiện liên lạc chúng tôi được tăng
cường thêm khoảng 1 tiểu đội lính Miên. Ðịch từ các cao ốc phía bắc
thành phố bắn ra dữ dội, ta chỉ là những bia di động trên cánh đồng
trống, có một vài anh em bị thương, còn lính Miên chưa quen chiến trường
nên bò lê lết chắp tay cầu nguyện. Tiểu đoàn đã liên lạc một số phi cơ
võ trang bao vùng và nhiều phi tuần hỏa lực yểm trợ, lệnh từ tiểu đoàn
trưởng với ám danh đàm thoại Thái Dương là bằng mọi giá phải chiếm mục
tiêu trước khi trời tối, áp lực địch yếu dần sau những lần không kích
của ta, Đại đội 5 và Đại đội 1 dùng khói màu xung phong hàng ngang, và
cuối cùng chúng tôi đã chiếm được bờ thành, bắt tay được với lực lượng
trú phòng vào lúc trời nhá nhem tối; để rồi sau đó toàn bộ tiểu đoàn đã
hoàn toàn di chuyển hết vào trong, ngủ qua đêm tại đây với nhiều trận
pháo kích dữ dội của địch đã có thêm một ít thiệt hại.
Sáng hôm
sau tiểu đoàn đã bắt tay được với Tiểu đoàn 4 và 7 ở hướng đông, tiếp
tục bung rộng mục tiêu về hướng bắc, chúng ta bắt sống được một số tù
binh của các sư đoàn chính qui CSBV đa số là các thanh thiếu niên còn
quá trẻ bị lùa vào chiến trường, số còn lại đã rút lui, tiểu đoàn có
lệnh truy kích địch đồng thời chịu trách nhiệm bảo vệ vòng đai thành phố
nầy. Việt kiều của ta tại đây đã bị bọn Khmer Đỏ cáp duồn nhốt dưới các
căn hầm tối om từ nhiều tháng đã được cứu thoát, đa số được chuyển vận
về các trại tiếp cư của ta ở Châu Ðốc. Lệnh từ tiểu đoàn được ban ra
chặt chẽ, các vị đại đội trưởng phải kiểm soát binh sĩ của mình đừng để
xảy ra những điều không tốt. Anh đã nhiều lần đích thân xuống tại các
trung đội để theo dõi và kiểm soát, nhờ vậy mà giảm đi rất nhiều tình
trạng lính tráng ba gai vô kỷ luật. Bây giờ Đại úy Hợp đã là tiểu đoàn
phó Tiểu đoàn 2 rồi, còn Đại đội 4 bàn giao cho đàn em Trung úy Kiều
Công Cự.
Ðại đội 5 chúng tôi vẫn tiếp tục chịu trách nhiệm phòng
thủ án ngữ mặt bắc của thành phố Preyveng có 1 trung đội nằm tiền đồn
tại một ngôi chùa kiên cố. Theo dự đoán anh biết thế nào chúng cũng sẽ
tấn công vị trí then chốt nầy, anh đã ra lệnh cho tôi hãy phối hợp với
sĩ quan đề lô để dự trù những tác xạ tiên liệu trước, rồi đánh dấu những
hỏa tập ấy cẩn thận trên bản đồ khi cần thì sử dụng cho nhanh, qua mấy
ngày chẳng thấy động tịnh gì. Vả lại do sự hời hợt không cẩn thận của
mình nên các điểm được ghi trên bản đồ đã bị mờ hết.
Khoảng 1
tuần sau, vào một đêm tối trời địch đã điều động nguyên tiểu đoàn để tấn
công vào Trung đội 1 của Thiếu úy Minh đang cố thủ tại đây. Ðúng theo
điều dự đoán của anh, tôi gọi máy báo cáo về để xin hỏa lực pháo binh
yểm trợ, anh vào máy hỏi tôi: “Thế các hỏa tập tiên liệu của ông đâu
rồi”. Tôi ú ớ chẳng biết đường nào mà mò, cứ chấm đại các tọa độ mà tôi
nhớ mang máng chế ngự chung quanh vị trí đóng quân. Anh tức giận lắm, lẽ
dĩ nhiên tôi phải hứng chịu những danh từ “cay đắng nhất” mà anh đã
dành cho tôi, tôi chỉ biết “Nhận rõ đại bàng, Nhận rõ Thái Dương 5/5”.
May mắn cho tôi là các binh sĩ trong trung đội tiền đồn đã chiến đấu
dũng mãnh nên giữ vững tuyến phòng thủ suốt đêm để chờ tăng viện vào
sáng ngày hôm sau, và cũng nhờ mát tay nên chỉ có vài anh em bị thương
nhẹ, còn địch buộc phải rút lui để lại nhiều vũ khí và xác chết. Anh đã
đến thăm khi tan trận và tỏ vẻ hối tiếc về những lời lẽ nặng nề đã dành
cho tôi từ tối hôm qua, còn tôi chẳng biết nói gì hơn xin nhận lỗi về
phần mình. Tiểu đoàn tiếp tục nhiều cuộc hành quân đổ bộ bằng trực thăng
vào các căn cứ địch, nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra và cũng bị thiệt
hại khá nhiều.
Về lại hậu cứ sau gần 2 tháng trời hành quân tại
Campuchia, để rồi vào tháng 7 năm 1970 tiểu đoàn được không vận ra Ðà
Nẵng, bắt đầu những ngày tháng hành quân liên tục ở miền địa đầu giới
tuyến, qua các căn cứ Sarge, Bá Hô, Holcom, Cùa, Mai Lộc… để rồi sau đó
tăng cường cho biệt khu Quảng Ðà hành quân vùng rừng thiêng nước độc Ðức
Dục, Quảng Nam.
Tháng 2 năm 1971 từ phi trường Biên Hòa Tiểu
đoàn 2 được chuyển vận ra Phú Bài, rồi di chuyển vào vùng Khe Sanh tham
dự giai đọan cuối của cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào. Trong khi chờ
đợi, tiểu đoàn hành quân lục soát an ninh toàn bộ vùng núi đồi quanh khu
vực, sau đó chính thức tham dự vào những ngày đầu tháng 3 năm 1971. Lữ
đoàn 147 do Đại tá Hoàng Tích Thông chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 2, 4, 7,
được trực thăng vận vào Căn cứ Delta. Ðây là một dãy đồi có thế yên ngựa
ở độ cao 550 m gồm 2 mõm nhỏ, mặt bắc đặt bộ chỉ huy lữ đoàn, còn phía
nam chỉ có khả năng đủ chỗ cho một pháo đội hỗn hợp gồm 2 khẩu 155 ly và
6 khẩu 105 ly thuộc Tiểu đoàn 2 Pháo binh. Mặt tây là một triền dốc đá
thẳng đứng, còn phía đông là những rẫy hoang cùng nhiều đường mòn chi
chít.
Lữ đoàn 258/TQLC cũng được trực thăng vận vào đỉnh Koroc
cùng với 1, 3, 8 và Tiểu đoàn 3 Pháo binh. Nhưng mặt trận chính vẫn là
vùng trách nhiệm của Lữ đoàn 147. Tiểu đoàn 4/TQLC được thả xuống và
bung rộng về hướng đông bắc, Tiểu đoàn 2/TQLC chịu trách nhiệm mặt tây
bắc, trong khi đó Tiểu đoàn 7 bảo vệ bộ chỉ huy lữ đoàn.
Ðại úy
Nguyễn Hoa khóa 20 Ðà Lạt trưởng ban 3 bị tử thương cùng nhiều binh sĩ
khác trong loạt pháo kích đầu tiên của địch vào căn cứ hỏa lực. Tiểu
đoàn 2 có 4 đại đội trưởng thì 2 người đã bị loại khỏi vòng chiến trong
tuần lễ đầu tiên. Trung úy Kiều Công Cự đại đội trưởng Đại đội 4, Ðại úy
Nguyễn Kim Thân đại đội trưởng Đại đội 2, Trung úy Bùi Ngọc Dũng đại
đội phó Đại đội 2 cũng bị thương rất nặng cùng Thiếu úy Trần văn Loan.
Tất cả đã được tải thương kịp thời nhưng Dũng đã bị chết dọc đường, sau
nầy được ghi nhận là mất tích.
Như cục đường bỏ vào hang kiến,
địch cứ thế mà bu vào. Sau khi rảnh tay ở mặt trận phía bắc, địch dùng
tất cả mọi nỗ lực hầu uy hiếp tràn ngập căn cứ. Hai trực thăng của ta
trong chuyến tiếp tế tải thương đã bị phòng không địch bắn hạ nhưng vẫn
cố gắng đáp xuống căn cứ, phi hành đoàn an toàn, pháo binh cơ hữu tại
căn cứ bị kiệt quệ hoàn toàn, mọi sự yểm trợ nhờ vào Lữ đoàn 258 tại
Korock và các phi vụ yểm trợ của Không quân Hoa Kỳ. Tiểu đoàn 2 bị địch
chận đánh khi hoạt động cách căn cứ khoảng 3, 4 km. Trong một phi vụ yểm
trợ, một quả bom đã lạc vào ngay vị trí Đại đội 5 làm bị thương một số
binh sĩ, mọi thương bệnh binh đều phải tải về ứ đọng tại bộ chỉ huy lữ
đoàn không còn chỗ chứa, nên lệnh là phải tiết kiệm xương máu của binh
sĩ tối đa.
Sáng nào cũng vậy các đại đội trưởng đều phải về họp
để nhận lệnh những việc cần làm trong ngày, anh Phúc thường hay dặn dò
bọn tôi tỉ mỉ là phải cố sức theo dõi và khuyến khích tinh thần binh sĩ,
sớm muộn chúng tôi cũng được về vì tình hình không cho phép ở đây lâu.
Chưa bao giờ tôi thấy anh buồn và đăm chiêu bằng lúc nầy, anh hút thuốc
liên tục và thường hay bói bài một mình. Với khả năng Anh văn lưu loát
anh đã điều động tất cả mọi phi vụ yểm trợ cho tất cả đơn vị thuộc lữ
đoàn, Tiểu đoàn 4 và 7 cũng không tránh số phận như Tiểu đoàn 2 chúng
tôi, tất cả đã co cụm về chung quanh bộ chỉ huy lữ đoàn. Ðại bàng Thái
Dương của chúng tôi đã được điều động về bộ chỉ huy lữ đoàn cùng trợ
giúp cho đại tá lữ đoàn trưởng. Kể từ giờ phút nầy anh đã lên máy thường
xuyên trong việc phụ tá cho vị lữ đoàn trưởng chỉ huy toàn bộ lữ đoàn.
Một
trung đội đặc công cảm tử địch đã bất ngờ tấn công và chiếm được một số
vị trí của đơn vị phòng thủ với ý định cắt đứt mọi tiếp viện từ ngoài
vào hầu làm bàn đạp cho lực lượng còn lại tung quân tràn ngập bộ chỉ huy
lữ đoàn. Từ tiền đồn phía bắc được chính anh ra lệnh đem quân về giải
tỏa khẩn cấp, tôi điều động 2 trung đội từ ngoài đánh vào, trong khi đó
lực lượng của Tiểu đoàn 7 từ trong đánh ra, địch lúng túng ngơ ngác nên
bị chúng tôi thanh toàn dễ dàng. Một số đã bị bắt sống và chết ngay tại
các căn hầm chúng chiếm được bằng những quả lựu đạn thật chính xác của
ta. Tất cả bọn chúng thuộc Sư đoàn 324B có nhiệm vụ đánh chiếm Bộ chỉ
huy Lữ đoàn 147.
Chuyện gì đến thì sẽ đến, không thể nằm chần chờ
chịu trận để quân số cứ hao hụt dần dần, lữ đoàn đã có lệnh di tản
chiến thuật từ quân đoàn, nhưng lệnh nầy chỉ phổ biến đến cấp tiểu đoàn
trưởng mà thôi, lý do thật giản dị là cố gắng duy trì tinh thần binh sĩ
hầu đủ thời gian sắp xếp cho kế hoạch rút lui. Anh hầu như có mặt trên
máy vô tuyến thường xuyên ngày cũng như đêm để giữ vững tinh thần của
anh em binh sĩ, Tiểu đoàn 4/TQLC hoạt động xa về hướng đông bắc bị thiệt
hại khá nặng đã rút lui ào ạt băng qua vị trí đóng quân của Đại đội 5
chúng tôi. Cá nhân tôi có yêu cầu họ hãy nằm lại vị trí để giúp đỡ chúng
tôi, nhưng tất cả đều vô vọng vì họ trong tình trạng không còn kiểm
soát chỉ huy. Anh vẫn theo sát tình hình và thường xuyên khuyến khích
chúng tôi, Đại đội đã bị cô lập ngoài vị trí tiền đồn suốt hơn tuần lễ
không tải thương, không tiếp tế, tất cả các điểm có nước dưới chân đồi
đều bị địch bao vây và chế ngự. Trời tháng 3 với cái nóng như thiêu như
đốt miền Hạ Lào đã gây khốn đốn cho chúng tôi, vừa đói lại vừa khát, đó
là vào những ngày 21, 22 tháng 3, 1971.
Vào buổi trưa sau khi họp
các trung đội trưởng lại để báo cáo tình hình, ai nấy cũng vui mừng vì
nghe tin là sẽ được rút, một cơn mưa bất chợt rất ngắn vào giữa buổi
trưa hè đã được mọi người vổ tay mừng rỡ, tất cả nước đầy bi đông cùng
đỡ lòng bằng những bao gạo sấy, nhưng rồi “phúc bất trùng lai”, một trận
mưa pháo thật ác liệt của địch vào ngay vị trí đóng quân nhất là ban
chỉ huy đại đội, Thiếu úy Nguyễn Kim, trung đội trưởng vũ khí nặng đã tử
thương cùng Hạ sĩ Ngạch hiệu thính viên, nhiều người khác bị thương rải
rác. Tôi vẫn liên lạc thường xuyên về tiểu đoàn nhưng mọi chuyện đều
ngoài khả năng giải quyết của vị tiểu đoàn trưởng vào lúc nầy.
Vào
khoảng 6 giờ chiều ngày 23-3-71 có tiếng rồ máy của chiến xa địch từ
xa, tôi báo cáo về anh thì anh cho biết đó là tiếng gầm gừ của máy bay
đến yểm trợ cho mình, không sao đâu cứ an tâm, khoảng nửa giờ sau thì
chúng đã mon men vào tuyến, và khi đó cũng là lúc tôi nhận được lệnh rút
quân từ tiểu đoàn.
Thiếu úy Ðinh Hồng Lạc người sĩ quan trẻ nhất
và cũng gan dạ nhất trong đại đội đã bị tử thương ngay đợt tác xạ đầu
tiên của địch, có vài chiếc bị khựng lại và bốc cháy do những quả đại
bác SKZ 57 ly từ Trung sĩ nhất Nguyễn Tế. Giọng anh vang vang trong máy
“Tiền Giang phải cho con cái move down south gấp”
Bật chạy ra
khỏi hầm trú ẩn vừa chạy vừa hô to: “Ðại úy Tiền đây, các anh hãy theo
tôi”. Cứ thế tôi lải nhải vào tận phía trong. Bộ chỉ huy trống vắng, mùi
hôi thúi của các tử thi nơi những chiếc poncho bọc kín không được tải
thương trong nhiều ngày, vài ba chục trong toán lính bị thương còn lại
đang hờn trách cấp chỉ huy, tôi vẫn hô to: “Ðại úy Tiền đây, các anh hãy
theo tôi”. Giọng Hạ sĩ Báu người lính gan dạ của đại đội bị thương vào
chân trong mấy ngày trước khóc to nhất: “Chân em bị gãy làm sao chạy
được ông thầy!” Nước mắt tôi tuôn chảy, miệng lẩm bẩm cầu nguyện ơn
trên, trong khi đèn chiến xa địch bắt đầu soi sáng bắn nã theo lên đồi
căn cứ. Không thể chần chờ được nữa, có tiếng hô to của giặc phía sau:
“Hàng sống chống chết”. Tôi và 2 hiệu thính viên Ðặng Phước Thành và
Nguyễn văn Chúc cùng nắm dây leo trên đỉnh dốc đá thẳng đứng tuột dù,
chiếc dây quá tải bị đứt nửa chừng, thầy trò rớt chồng lên nhau trên mặt
đất, tay mò mẫm khắp nơi trên cơ thể, đứng lên ngồi xuống, mới yên tâm
là mình còn đủ sức thoát hiểm mưu sinh. Tập hợp lại tại chỗ dưới chân
đồi được vài ba chục mạng thuộc nhiều đơn vị khác nhau, tôi ra lệnh tất
cả hãy theo tôi và tuyệt đối giữ kỷ luật khi di chuyển. Thỉnh thoảng
cũng có giọng của Ðại úy Hợp tiểu đoàn phó còn hầu như mọi sự điều động
đều từ niên trưởng Nguyễn Xuân Phúc, anh đã làm cho anh em chúng tôi cảm
thấy thật an tâm, mặc dầu trong tình thế thật nguy kịch như lúc nầy,
chúng tôi theo sự chỉ dẫn đó mà đi suốt đêm đến trưa ngày hôm sau mới
trèo lên đỉnh dốc của một ngọn đồi cao nơi có Tiểu đoàn 3/TQLC chờ sẵn
để tiếp cứu. Vài binh sĩ vì quá kiệt sức đã lăn ra chết ngay tại chỗ,
tất cả thương bệnh binh được anh ưu tiên trong những chuyến tải thương
đầu tiên, nhưng chỉ nửa giờ sau thì bãi bốc không còn an toàn nữa, địch
trên đà chiến thắng xông lên tấn công mặc dầu trước sức phản công mạnh
mẽ của các chiến sĩ Sói Biển, nhưng để tránh thêm thiệt hại, toàn bộ
được lệnh di chuyển đến một nơi an toàn khác. Các chuyến trực thăng vận
lại tiếp tục làm nhiệm vụ của mình ở bãi bốc mới, các sĩ quan tham mưu
lữ đoàn, các Ðại Bàng lần lượt ưu tiên trong những chuyến bay đầu, nhưng
anh vẫn là người bình tĩnh nhất ở lại điều động cho hết toàn bộ các đơn
vị thất lạc. Niên trưởng đã thể hiện được trách nhiệm của một cấp chỉ
huy đáng khâm phục, gần phân nửa tiểu đoàn bị hao hụt khi về lại Khe
Sanh.
Một cuôc diễn hành rầm rộ mừng chiến thắng sau đó tại Phú
Văn Lâu vào ngày 12 tháng 4 năm 1971, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu duyệt
binh trước các đơn vị đã tham dự hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào, anh được
thăng cấp trung tá cùng nhiều vị chỉ huy khác, Ðại úy Hợp lên thiếu tá,
còn tôi và Lâm Tài Thạnh mỗi người được ân thưởng Ðệ ngũ đẳng Bảo quốc
huân chương với nhành dương liễu. Sau đó được không vận về lại hậu cứ bổ
sung quân số và tái trang bị rồi lại tiếp tục lên đường chiến đấu sau
thời gian 2 tháng huấn luyện bổ túc tại Trung tâm huấn luyện quốc gia
Vạn Kiếp, Bà Rịa, Vũng Tàu.
Tháng 10 năm 1971 tôi được lệnh bàn
giao Đại đội 5 cho Trung úy Huỳnh văn Trọn vừa du học Mỹ trở về để đảm
nhận chức vụ trưởng ban 3. Do kinh nghiệm qua cuộc hành quân Hạ Lào vừa
qua trong việc bảo mật truyền tin, anh đã ra lệnh cho anh em chúng tôi
là phải tìm một con số ngụy hóa tên của mình, anh khóa 16 nên có danh
xưng là 216, Thiếu tá Hợp khóa 19 là 819, còn tôi là 324, Đại úy Liễng
là 414. Từ đấy mỗi lần nói chuyện với nhau phải được ngụy hóa bằng những
ám danh đàm thọai đàng hoàng, không còn những tên gọi “thẩm quyền, đại
bàng, thái dương, mặt trời” như trước kia. Trong cuộc tấn công ào ạt của
Cộng sản vào Mùa hè đỏ lửa 1972, Tiểu đoàn 2 Trâu Ðiên chỉ có mặt vào
những ngày cuối cùng tháng 4-72, khi sắp diễn ra cuộc lui binh ở mặt
trận bắc Quảng Trị, 2 Lữ đoàn 147 và 258 đã bị tổn thất nặng nề, Sư đoàn
3/BB cùng các liên đoàn Biệt động quân hầu như tan rã toàn diện. Lữ
đoàn 369 gồm các Tiểu đoàn 2, 5, 9 do Đại tá Phạm văn Chung chỉ huy là
đơn vị còn lại mạnh nhất để tiếp cứu đồng đội và chặn đứng sức tấn công
dũng mãnh của quân Cộng sản, một phòng tuyến mới được thiết lập ngay sát
bờ nam dòng sông Mỹ Chánh. Tiểu đoàn 2 Trâu Ðiên chịu trách nhiệm giữ
an ninh con đường từ Căn cứ Nancy sát quốc lộ 1 đến tận cùng về phía
Trường sơn, Đại đội 4 do Đại úy Liễng chỉ huy trấn giữ căn cứ đồi
Barbara ở độ cao 300 m, đây là điểm chiến lược quan trong nhất còn lại
để bảo vệ tuyến phòng thủ phía nam, bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng tại khu
rừng trên nửa đoạn đường, các đại đội còn lại hoạt động chung quanh vị
trí, với tầm nhìn xa của một cấp chỉ huy đầy kinh nghiệm, anh biết thế
nào Đại đội 4 cũng sẽ bị chịu ăn pháo và tấn công, một cuộc lui binh nữa
để bỏ căn cứ rồi cũng sẽ được diễn ra trong tương lai không biết xảy ra
bất cứ lúc nào, anh đã ra lệnh cho Ðại úy Liễng là hàng ngày phải có
một toán xuống núi hoạt động chung quanh, cố gắng mở được một con đường
thoát bí mật ăn thông với bộ chỉ huy tiểu đoàn để khi cần thiết sử dụng
hoặc để tiếp tế tải thương, khi khoảng 5 km đường rừng được khai thông
cũng là lúc địch tập trung nhiều hỏa lực pháo kích uy hiếp hầu tràn ngập
căn cứ. Lệnh cho Đại đội 4 được lui binh rời bỏ căn cứ bất ngờ vào ban
đêm để trống mục tiêu hầu dễ dàng cho không quân oanh kích đúng như tiên
liệu của anh, nhờ vậy mà Đại đội 4 đã về được bộ chỉ huy tiểu đoàn an
toàn, tránh được cuộc phục kích nằm chờ sẵn của địch được chúng tiên
liệu theo trục tiến quân. Sau đó tiểu đoàn được điều động thay thế tiểu
đoàn bạn để phòng thủ tuyến Mỹ Chánh, bộ chỉ huy được đặt trên một ngọn
đồi nhỏ tại một nhà thờ vừa mới được cất, đây là thời gian sôi động nhất
của cuộc chiến 72, hầu hết các hãng thông tấn ngoại quốc thường hay đến
săn tin, cứ mỗi buổi chiều khi họ về thì đó là lúc địch tập trung pháo
kích, nhờ có tiền sát viên bám sát nên chúng pháo thật chính xác vào vị
trí ta, mỗi lần nghe tiếng depart là anh gióng hướng phương giác nghịch
tìm đọc trên bản đồ để rồi ước lượng khoảng cách xin phi cơ quan sát tìm
cách phản pháo, nhờ vậy mà mỗi ngày cường độ địch pháo kích bớt đi.
Ðêm
nào cũng vậy các đại đội phòng thủ ở tuyến đầu bị tấn công liên tục,
nhờ tinh thần chiến đấu cao và hỏa lực yểm trợ dồi dào nên địch chẳng
làm gì được ta, anh thức rất giỏi mỗi lần nghe nơi nào chạm địch là anh
vào máy theo dõi tình hình liền, thay vì đó là công việc của sĩ quan ban
3.
Làm sĩ quan tham mưu dưới quyền anh cũng khổ, cái gì anh cũng
giành làm, vì chẳng ai làm vừa ý được như anh, cuối tháng 5-72 khi bắt
đầu có lệnh phản công tái chiếm lại thị xã Quảng Trị cũng là lúc anh
nhận được lệnh về làm lữ đoàn phó 147, bàn giao Tiểu đoàn 2 cho Thiếu tá
Trần văn Hợp, còn cá nhân tôi làm tiểu đoàn phó. Trong những ngày đầu
tiên của hiệp định ngưng bắn sau trận Cửa Việt ngày 28 tháng giêng,
1973, anh đã thường xuyên có mặt ở tuyến đầu trách nhiệm việc trao trả
tù binh cũng như giải quyết các đơn vị Cộng sản còn kẹt lại bên trong
vùng trách nhiệm của ta về bên kia chiến tuyến.
Vào những ngày
đầu năm dương lịch 75, trước sức tấn công ào ạt của quânCộng sản, Sư
đoàn Thủy quân lục chiến thành lập thêm Lữ đoàn 468, anh đã đảm nhận
chức vụ lữ đoàn trưởng 369 cùng với Trung tá Ðỗ Hữu Tùng lữ đoàn phó, cả
hai anh đã mất tích trong những ngày di tản cuối cùng vào những ngày
tháng cuối tháng 3-75.
Bên cạnh những hào quang sáng chói của một
cấp chỉ huy mẫu mực, gan dạ, thông minh, hết lòng với thuộc cấp, anh
cũng có một đời sống thật phong sương đầy hào hùng nhưng cũng không kém
phần vui nhộn của người lính tác chiến. Anh là một tay nhậu cừ khôi ít
ai địch nổi, có thể ngồi uống suốt đêm nếu có ai đó cùng nhậu tán gẫu
hợp “gout” mình. Ðêm ở nhà thờ Mỹ Chánh với Phan Nhật Nam vào mùa hè đỏ
lửa 72, có lẽ là một kỷ niệm khó quên khi người cố vấn quá say trốn đi
ngủ sớm, chỉ còn anh và người niên đệ Phan Nhật Nam, chén anh chén em
tâm sự trong khi những tràng đạn pháo kích địch rải rác khắp đó đây. Mỗi
lần như vậy anh thường hay kêu tên chửi đổng từ Hồ chí Minh đến Võ
Nguyên Gíáp, Lê Duẩn, Trường Chinh…
Lúc cao hứng nhất thì anh lại
hát những bài hát được sửa lời theo ý mình, 2 bản ăn khách nhất mà anh
thích nhất là Trấn thủ lưu đồn và Tình thư của lính. Anh là một tay tiếu
lâm có hạng. Vì là sĩ quan độc thân nên anh xem đơn vị cũng như gia
đình, luôn luôn giải quyết những trường hợp khó khăn của thuộc cấp, mỗi
lần tiểu đoàn về hậu cứ là anh ra lệnh các đại đội trưởng phải thường
xuyên viếng trại gia binh, theo dõi khẩu phần ăn của binh sĩ mỗi ngày,
nếu có ai đó đụng chạm đến quyền lợi của binh sĩ, anh sẽ trừng trị thẳng
tay. Làm đơn vị trưởng nhiều năm nhưng chẳng có gì riêng cho mình, con
nhà giàu độc thân thứ thiệt thì tiền bạc chẳng có nghĩa gì đối với anh.
Là một người từng du học Hoa Kỳ nhưng anh cũng là người không bao giờ
cầu cạnh hoàn toàn vào người Mỹ.
Anh cũng là tay cờ bạc có hạng,
biết chơi tất cả các loại bài mà lại cũng là tay cao thủ từ mạt chược,
tứ sắc, tổ tôm, xì phé, xập xám đến cờ tướng, bài cào cắc tê, nhưng tất
cả chỉ là để giải trí cho qua hết thời giờ nhàn rỗi chứ không có ý sát
phạt.
Cuộc chiến rồi cũng qua, đời người rồi cũng hết, hôm nay
ngồi ghi lại những dòng nầy như một trổi dậy từ ký ức của một đứa em đã
từng có những ngày vui buồn với anh; những ngày hành quân gian khổ cùng
chia nhau những giờ phút sinh tử tại chiến trường, hay những giờ phút
thật cô đơn của đời lính lạc lỏng bơ vơ nơi hậu cứ, bên ngoài những ào
ạt nóng bỏng của đời sống hằng ngày, tôi đã tìm được nơi anh những
khoảng trống tinh thần của một kiếp người vô vị mà những cái chết thật
tình cờ hầu như đang rình rập quanh đây, mỗi ngày mỗi giờ ở những người
bạn đã lần lượt ra đi! Ðời sống con người chỉ là những quán trọ bên
đường, còn đó, mất đó, anh đã sống hết cho tha nhân, chẳng có gì của
riêng mình dù là một tí hạnh phúc nhỏ bé. Sự mất tích của anh cũng như
nhiều sự ra đi khác trong khung cảnh triệt thoái không được chuẩn bị
trước, đành rằng “cổ nhân chinh chiến kỷ nhân hồi”, nhưng sự mất tích
nầy của anh cũng như anh Ðỗ Hữu Tùng là niềm đau chung cho những người
lính Thủy quân lục chiến chúng tôi.
Niên trưởng đã ngủ yên một
nơi nào đó mà không ai thấy, không ai nghe, không ai biết! Mặc dầu tuyệt
vọng hoàn toàn, nhưng trong tâm khảm của mỗi người lính Mũ Xanh đều ao
ước một sự trở về của anh dù chỉ trong tưởng tượng của những giấc ngủ về
đêm.
Phạm văn Tiền (khóa 20 Đà Lạt)
No comments:
Post a Comment