Chúng tôi gồm 4 khóa:
28, 29, 30 và 31 về đây được ít lâu; sau một cuộc di tản có một không
hai của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Một cuộc di tản thật khủng khiếp. Trong khi chúng tôi
chưa hết bàng hoàng thì lệnh ra trường như tiếng sét ngang tai.
Khóa
28 và Khóa 29 như những bầy gà sắp mất mẹ. Chỉ tội nghiệp cho Khóa
30 và Khóa 31, vì chúng tôi là kẻ mà họ đặt niềm tin. Mất chúng
tôi, họ sẽ ra sao?, họ biết làm thế nào?. Hình như đây là tình Võ Bị.
Các khóa đàn em thường xem các khóa lớn hơn là kim chỉ nam cho cuộc
đời binh nghiệp của họ. Hai Khóa 30 và 31 lay hoay đi tới chạy lui hỏi
thăm về tin tức ra trường.
Ra trường là tin chính xác 100%.
Bấy giờ trời đang chập choạng tối, vào khỏang 7, 8 giờ tối.
Tụm năm tụm ba, lao xao bàn tán. Kẻ nói lời chia tay. Người nói lời
chúc phúc. Màn đêm vẫn trong sáng. Không một giọt mưa ngoài trời. Gió
vẫn vi vu như ngày nào; trong khi âm thanh đạn nổ đưa về từ phía xa xa;
làm cho lòng người bất ổn. Lòng chúng tôi, mưa đang rỉ từng hồi, từng
giọt.
Một đêm không ngủ cũng đã qua đi trong lo âu, buồn thảm. Số phận
của chúng tôi, số phận của đất nước rồi sẽ ra sao? Không khí trại
Long Thành như đang sắp nổ tung vì nguồn tin không tốt này.
Sáng hôm sau, ngày 21 tháng tư năm 1975, chúng
tôi sẵn sàng đeo lon Thiếu Úy. Mặt trời lên, chúng tôi nghiêm chỉnh vào
hàng như để tiếp nhận một trọng trách quan trọng mà người dân Miền
Nam giao phó.
Khác xa với buổi lễ ra trường của các khóa đàn anh như khóa 26 và khóa 27 [3f], mà chúng tôi đã từng tham dự tại trường Võ Bị. Chúng tôi không có cân đai áo mũ, không có cờ xí rợp trời, không có kèn trống tiễn đưa, không có người thân yêu tham dự. Và nhất là chúng tôi không có lễ truy điệu, không nghe được lời cầu nguyện cho tử sĩ. Ngoài những giọt nước mắt sụt sùi của hai khóa đàn em; 30 và 31, những xót xa thương tiếc của các bậc đàn anh dày dạng gió sương đã dìu dắt chúng tôi.
CHIẾN SĨ TRẬN VONG Lúc bấy giờ trên cánh đồng Chim bắc Việt; Bên con rạch nhỏ Đồng Nai; Trong đám rừng sâu Trung Việt; Phút chốc liệt vị đã trở nên người Thiên Cổ;
Đành rằng chốn trần gian nào ai mong sống mãi;
Hãy trở về chứng giám;
CHÚNG TÔI KHÔNG CẦU AN LẠC DỄ DÀNG. MÀ CHỈ KHÁT KHAO GIÓ MƯA CÙNG NGUY HIỂM;
Buổi lễ ra trường có một không hai. Đơn giản, nhưng không
kém phần trang trọng. Không diễn hành, không diễn văn. Chúng tôi trong
tư thế với đồ trận và nón sắt.
Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tổng Cục Trưởng Tổng
Cục Quân Huấn chủ tọa lễ mãn khóa cho khóa 28 và 29. Cấp bậc Thiếu Úy
được gắn cho khóa 28 và 29 tại Vũ Đình Trường của Trường Bộ Binh Long
Thành.
Khóa 28 ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, gồm 255 tân Thiếu Úy.
Thủ Khoa khóa 28 là Thiếu Úy Hồ Thanh Sơn, tên Khóa là: "Đại Tá Nguyễn
Đình Bảo" [3a].
Khóa 29 ra trường với 291 tân Thiếu Úy [11]. Khóa 29 được mang tên "Thiếu Tá Hoàng Lê Cường", thủ khoa là Đào Công Hương [1]
Trời vẫn sáng. Thỉnh thoảng những loạt pháo kích từ xa, đưa âm thanh
về nơi chúng tôi đang lựa chọn đơn vị, như ngầm hăm dọa, hù nhát.
Chúng tôi, mặt mày bơ phờ, lo lắng, nhưng không dấu được sự cương nghị
của kẻ làm trai thời ly loạn:
"Chúng tôi không cầu An Lạc dễ dàng, mà chỉ Khát Khao gió mưa cùng Nguy Hiểm".
Tôi lo âu, thấp thỏm chờ đợi đến phiên chọn
đơn vị. Người này chọn, rồi đến người khác chọn. Không biết số phận
của tôi về đâu; bỡi vì chọn đơn vị khi ra trường ảnh hưởng đến cả
cuộc đời binh nghiệp của một Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Quốc Gia
Việt Nam.
Lòng tôi như lửa đốt cho việc chọn lựa chiến trường. Thế
rồi tên tôi cũng được xướng lên một cách rõ ràng "Nguyễn Văn
Thành C28".
Tôi bước đi trong tư thế không được Tự Tin, về
phía trước. Mắt tôi sáng lên, và hồn tôi như tỉnh lại. Hai vị trí
Nhảy Dù vẫn còn trống. Lập tức, tôi la lớn:
- "Nhảy Dù! - Nhảy Dù!". Những âm thanh ồn ào reo lên như ủng hộ cho sự chọn lựa của tôi.
Từ
trái qua: Lê Phước Nhuận B28 (California), Nguyễn Văn Viễn B28
(Florida), Nguyễn Văn Nghị B28 (Oregon), Nguyễn Tường H28 (New York), Võ
Hữu Lợi (Oregon), Trần Văn Lý (Virginia), Nguyễn Đình Lâp B28 (New
York), Phạm Minh Hùng (Texas), Trần Hiệp B28 (Washington State).
Ngay chiều ngày 21/4/1975, chúng tôi được đưa về trại Hoàng Hoa Thám với sự tuyệt vọng của hai khóa 30 và 31, và sự luyến thương của những người anh cả Võ Bị. Trong khi đó, những đơn vị khác cũng được đón rước một cách trịnh trọng, nhưng vội vã; về đơn vị của họ. Trên xe GMC, tôi thấy đầy cả hai khóa 28 và 29, nhưng tôi không buồn nhìn ai trong lo âu, bàng hoàng của mình. Tôi chẳng nhớ một ai trong lúc ấy. Tôi hiểu rằng; tôi sắp và đang tiến ra vùng lửa đạn. Một cuộc đổ máu không thể tránh khỏi. Máu và máu sẽ diễn ra trước mắt tôi trong một tương lai không xa. Chết là cái chắc, bỡi Cộng quân đã áp đảo Sài Gòn. Má và các em tôi cũng lo lắng không ít. Điều mà tôi tiên đoán là họ đang trên đường chạy loạn từ Qui Nhơn vào Nam ??? Không biết họ thế nào trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này?
Chiếc xe GMC vượt qua khỏi mọi nẻo đường, góc phố. Người người tấp nập ngược xuôi như đang lo toan, chuẩn bị một điều gì trọng đại sắp xảy ra cho họ. Họ ngoắc tay vẫy chào khi xe chúng tôi đi qua. Mắt của họ như vừa buồn tủi, lo sợ, vừa vui mừng hy vọng. Ngã tư Bảy Hiền yên tỉnh. Sự yên tĩnh đáng sợ. Cổng trại Hoàng Hoa Thám không dấu được nét nghiêm trọng của một khu vực; là bãi chiến trường sắp xảy ra nay mai. Thế là chúng tôi đã đến trại Hoàng Hoa Thám, nơi mà khóa 28 chúng tôi về đây tập nhảy dù đợt hai, và được trường Võ Bị gọi về khẩn cấp vào tháng trước.
Chúng tôi được lệnh của vị sĩ quan Nhảy Dù:
- "Các anh được phép thoải mái ngày hôm nay (ngày 21 tháng 4 năm 1975). Sáng ngày mai (ngày 22 tháng 4 năm 1975), các anh tập hợp đầy đủ tại đây, đúng 8 giờ sáng, và sẽ được đưa về đơn vị của mình".
Thế là chúng tôi; khóa 28 và khóa 29; như chim sổ lồng. Kẻ trước, người sau mất hút trong âm thầm, sau những reo vui đầy bi thương.
Tôi hỏi đơn vị của Niên Trưởng Hảo, và được trả lời, nhưng đến bây giờ tôi không nhớ rõ, kể cả họ của Niên trưởng tôi vẫn không nhớ. May nhờ liên lạc được niên trưởng Trân khóa 27; Nguyễn Ngọc Trân. Tôi mới biết được họ tên đầy đủ của niên trưởng Hảo là Nguyễn Chí Hảo.
Niên Trưởng Hảo và tôi có duyên gặp nhau tại trường Võ Bị trong tình cảnh của những người; con bà Phước xa nhà. Niên Trưởng Hảo; hơi gầy, tầm thước, nhưng không cao lắm. Điều đặc biệt mà tôi mến yêu niên trưởng Hảo là sự chân thành, và hiền hậu. Niên Trưởng là một con chiên ngoan đạo của đức chúa Trời. Những khoảng thời gian khóa 27 còn trong trường Võ Bị, chúng tôi có dịp cùng nhau ra phố; lội loanh quanh khu phố Hòa Bình Đà Lạt, đi vòng vòng thác Cam Ly, vân.vân.
Hai chàng lính trẻ xa nhà; cô độc; tìm nhau trong tình thương Võ Bị. Cho đến khi khóa 27 sắp ra trường, chúng tôi thường hỏi nhau về việc chọn binh chủng. Và chúng tôi hứa với nhau là sẽ gặp nhau tại trại Hoàng Hoa Thám. Hôm nay. Chúng tôi đã hoàn thành lời hứa.
Nhưng gặp nhau đây. Rồi mai sẽ ra sao? Đất nước đang hồi nghiêng ngửa. Giặc đánh phá khắp nơi, trong khi quân ta không còn đạn dược. Chính phủ Mỹ đã cắt viện trợ từ lâu. Chúng ta đánh giặc bằng cách nào? Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho tình trạng bi thảm nhất. Còn đạn thì tốt. Không còn đạn cũng tốt. Đánh cho đến viên đạn cuối cùng. Ra sao thì ra sao.
Chúng tôi là những sĩ quan trẻ ra trường non trong lúc đất nước lâm nguy. Chúng tôi chẳng có một chút kinh nghiệm chiến trường nào cả. Nhưng nói cho cùng, trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam đã dạy chúng tôi đầy đủ 3 mùa quân sự.
Tôi nghĩ 3 mùa quân sự mà chúng tôi học tại quân trường Võ Bị là quá đủ, vì trường không cần phải dạy thêm gì cho chúng tôi nữa cả; nhất là quân sự. Chỉ cần chúng tôi thực sự chạm địch nhiều lần, thì chiến trường sẽ dạy cho chúng tôi những bài học xương máu qúy giá. Và chúng tôi có khả năng học hỏi mau lẹ.
Tôi cứ đi như thế không biết bao lâu. Và bây giờ là mấy giờ đêm?. Với tôi bây giờ, hình như đồng hồ thời gian không còn quay nữa. Tôi quày lại, và bước lui về hướng trại Hoàng Hoa Thám. Cứ thế tôi đi, tôi đi như bóng ma trên đường. Lủi thủi. Lủi thủi đi một cách khoan thai, chậm rải.
Không biết lúc nào, tôi đã vượt qua khỏi ngả tư Bảy Hiền. Trước mặt tôi, bên phải là một bệnh viện. "Tổng Y Viện Cộng Hòa"? Cách đường lộ khỏang 50 hay 70 thước. Không biết trí nhớ này của tôi có đúng hay không ? Tôi ngồi xuống bên cạnh lề đường. Tôi không có nơi để đến, không có nhà để về. Tôi bơ vơ, lạc lõng ngay trên đất thủ đô Sài Gòn của miền Nam, nơi mà tôi có bổn phận phải bảo vệ trong một vài ngày sắp tới.
Ánh sáng cũng bắt đầu ló dạng từ xa. Có ai biết đâu, đêm qua là đêm khủng khiếp. Họ quần thảo nhau ở chiến trường Đông Bắc đã gây hại cho biết bao người.
Tôi chống tay đứng dậy, đi về trại Hoàng Hoa Thám. Thế là tôi đã qua một đêm không ngủ trên vệ đường.
Đúng
vào 8 giờ sáng ngày hôm sau, ngày 22 tháng 4 năm 1975, tất cả
mọi tân Thiếu Úy khóa 28 và 29; chọn Nhảy Dù; đã có mặt tại
buổi tập họp trước mặt vị sĩ quan Nhảy Dù hôm qua. Trong
khi điểm danh, ông ta phát giác được một số vắng mặt. Ai đây?
Đứa nào? sao dám bạo gan làm trò lì lợm, trễ nãi như thế
này? Vui chơi rồi. Tâm sự rồi. Chia tay chúc phúc rồi. Giặc
khắp mọi nơi, đất nước đang hồi nghiêng ngửa. Sao lại thế này?
Trong khi chúng tôi tập họp, và điểm danh, mấy chiếc xe Jeep và GMC đã nổ máy chờ đợi. Một anh khóa 29; Tánh, và tôi được chỉ định lên chiếc xe Jeep cách chúng tôi chừng 50 thước.
Anh Thượng Sĩ Nhảy Dù đưa tay lên chào hai chúng tôi, và nói:
- "Mời hai Thiếu Úy lên xe, em đưa về đơn vị".
Chiếc xe Jeep lăn bánh, đưa hai chúng tôi rời khỏi trại Hoàng Hoa Thám, trong bầu không khí yên lặng, như nín thở của những tân sĩ quan còn đứng lại.
Chúng tôi vượt qua từng chặn đường. Mỗi chặn đường là mỗi lo âu, thất vọng của dân chúng. Họ lo lắng. Có phải tết Mậu Thân tái diễn hay không? Bên trái chúng tôi là một tai nạn. Có mấy nhân viên Hồng Thập Tự chăm sóc, cứu chữa cho nạn nhân. Tôi nghĩ có lẽ nạn nhân; là một thanh niên chừng 16, 17 tuổi; phải mất mạng vì máu của cậu ta chảy ra quá nhiều. Chiếc xe Jeep bổng rẽ phải và dừng lại sau đó. Tôi không hiểu nơi đây là đâu? và là ở vào vị trí nào của Sài Gòn?
Còn nhớ 2/1973. Tôi quen anh trong dịp anh đi công tác chiến dịch Paris ngoài Trung. Năm đó tôi chỉ là cô bé mới 16 tuổi, tôi không biết gì về Võ Bị Đà Lạt cả. Chỉ biết anh là người lính rất hiền lành tử tế. Mà tôi là người rất lý tưởng về người lính VNCH.
Tôi yêu hình ảnh của anh với chiếc khăn quàng cổ màu thiên thanh, với thời áo trắng mơ mộng lãng mạn trong những câu chuyện tình yêu qua sách vở, phim ảnh.
Đến khi 4/1975, bao biến cố cho gia đình tôi. Ba tôi đi tù 8 năm. Những khốn khó mà mẹ và 11 anh chị em tôi phải trải qua khi trụ cột gia đình không còn. Tôi vẫn quyết tâm chờ đợi.
Rồi đến lúc, tôi đi thăm anh ở trại tù Phước Long để tìm hiểu và quyết định cho cuộc đời mình.
Khi anh nói: "Đời anh thế là hết, tận cùng xã hội. Thôi em hãy về tìm người điều kiện tốt mà nương thân gởi phận"
Chính câu nói đó , càng làm tôi quyết tâm hơn nữa.
Anh ra tù. Cuối năm 1979, bất chấp gia đình tôi phản đối, tôi vẫn xách gói về sống cùng anh. Tôi cũng vẫn chưa biết gì về Võ Bị. Sau này khi tình hình VN bớt căng thẳng chính trị. Sinh hoạt họp mặt bạn cũ thường xuyên hơn. Và từ những câu chuyện về trường Võ Bị.
Một anh lính đưa một cặp vợ chồng già đến gặp tôi. Họ là chủ căn nhà này. Chúng tôi đóng quân sân trước và vườn sau của họ. Ông già lễ độ nói:
- "Chào Thiếu Úy. Chúng tôi đi. Đây là nhà của chúng tôi. Ở đây không an toàn. Trong nhà còn ít thức ăn, nước uống. Xin Thiếu Úy và anh em cứ tự nhiên. Chúc Thiếu Úy và anh em may mắn".
Ông nói trong lo âu; tuyệt vọng. Ông bà cúi đầu chào chúng tôi 1 lần nữa và rời khỏi căn nhà yêu dấu của họ. Nước mắt rưng rưng; thấp thỏm; lo âu; trong tuyệt vọng ê chề. Phút chốc, họ mất hút bên kia căn nhà lá lụp xụp, xiêu vẹo; cơ hồ như chỉ chờ một cơn gió nhẹ lướt qua.
- "Ông thầy. Hầm này là của ông thầy. Hai đứa em ở đây. Họ chỉ cho tôi thấy hai cái hầm chiến đấu bên cạnh, cách tôi khoảng 3 thước. Một bên trái, và một bên phải".
Tôi nhìn hầm chiến đấu, mà họ đã đào sẵn cho tôi từ lúc nào tôi không biết. Cái hầm này lớn hơn của họ. Họ giải thích:
- "Hầm này dành cho ông thầy, và thằng (người lính truyền tin)".
Đáng tiếc là tôi không nhớ được tên họ của 3 người lính Dù thân cận, anh dũng, và kiêu hùng này.
Mọi việc sắp xếp đơn vị và an ninh tạm ổn thì có nhiều tiếng xì xào, bàn tán xôn xao. Có năm bảy người lính Dù nói từ xa vọng lại:
- "Ông thầy. Dạy võ Thái Cực Đạo cho tụi em đi ông thầy?".
Thế là cả đám ùn ùn kéo đến trước mặt tôi. Tôi từ ngạc nhiên này, đến ngạc nhiên khác. Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có cái loại lính siêng năng cần mẫn, và dễ thương như thế này sao ?
- Dạ...." âm thanh vang xa như muốn xé nát tâm cang kẻ thù. Hú hồn cho tôi, vì tôi theo học Thái Cực Đạo tại trường Võ Bị, nếu tôi chọn Nhu Đạo, thật khó ăn nói với đám lính ngay trong hoàn cảnh này.
Đến đây, tôi muốn nói vài lời cảm ơn đến người niên trưởng mà tôi kính yêu. Niên Trưởng Minh; khóa 25. Cảm ơn niên trưởng. Niên trưởng đã dày công tập luyện, tạo nên một trung đội hùng tráng, dũng mãnh, mà tôi là người thừa hưởng. Tôi thầm nói với mình rằng; tôi sẽ tiếp sức với niên trưởng; huấn luyện binh sĩ của chúng ta một cách cần mẫn, hầu mong họ có cơ may sống sót trong những trận cận chiến sau này. Nhưng người tính không bằng Trời tính. Niềm ao ước ấy không bao giờ thành sự thật.
Thế là tất cả bọn họ quy tụ đầy đủ và chờ đợi. Tôi hỏi 2 anh Trung Sĩ Nhất:
- "An ninh thế nào?".
- "Dạ. Ông thầy yên tâm. Tụi em luôn luôn cẩn thận. Ông thầy đừng lo."
Tôi quần thảo trung đội có vẻ nhẹ nhàng hơn tân khóa sinh khóa 31 một chút. Hai mươi phút sau, tôi cho họ xả hơi, nhưng có vẻ họ không vừa lòng.
Ông lão yên lặng, không trả lời, và có vẻ khó quyết định.
Tôi nói với ông:
- "Ở chỗ tôi đóng quân, có một cặp vợ chồng già đã rời khỏi nhà của họ, đi lánh nạn cách đây không lâu."
Hàn huyên tâm sự cùng ông lão mươi phút, tôi đứng dậy, chào niên trưởng Minh (15), nói:
- "Niên trưởng có cần dặn dò tôi điều gì nữa không ? Nếu không, cho tôi về coi trung đội, kẻo có điều đáng tiếc xảy ra". Niên trưởng phất tay:
- "Cẩn thận".
Tôi chào ông lão trước khi trở về trung đội. Tôi hiểu rằng sự có mặt của tôi ở đó, không mang lại ích lợi gì cho 15, vì 15 trò chuyện với ông lão cũng vì mục đích an ninh cho chúng tôi.
Về trung đội; tôi ra lệnh cho binh sĩ viếng thăm tất cả mọi căn nhà trong khu vực đóng quân; yêu cầu họ di tản đi nơi khác, để phòng khi có bất trắc xảy ra nơi đây.
Hai mươi phút sau, lính của tôi báo cáo và nói rằng dân trong vùng bằng lòng rời khỏi nhà trong thời gian ngắn nhất. Thế là tôi yên lòng. Chúng tôi đã sẵn sàng. Sẵn sàng cho một trận chiến; khốc liệt; đẫm máu; hay gì gì đi nữa, xảy ra bất cứ lúc nào. Nhất là đêm nay, tối ngày 22 tháng 4 năm 1975.
Trời đã về chiều, nhưng mặt trời vẫn còn lờn vờn trên cành cây. Khung cảnh quanh tôi thật trong sạch, nhưng có chứa chút ít tử khí.
- "Tạch... Tạch...
- Đùng... Đùng..."
Thỉnh thoảng âm thanh đưa về làm cho lòng người lính trẻ không được yên tâm. Tôi thì không sao. Tôi chỉ không yên tâm cho những binh sĩ hồn nhiên dưới quyền. Họ vẫn tụm nhau cười cười; nói nói, như những âm thanh ngoài kia không hề làm họ lo sợ, nản lòng. Thật tội nghiệp. Đúng là điếc không sợ súng. Họ, người lính của tôi có biết gì đâu? Kể cả tôi. Chúng tôi chỉ là kẻ thi hành lệnh.
Tôi ngoắc tay gọi anh binh nhất đến, và bảo anh ta nói nhỏ với từng người:
- "Dạ ngót 3 năm. Ông thầy." Ngước nhìn tôi trong ánh sáng lờ mờ, và nói:
- "Em từ Biệt Động Quân qua." Tôi nói:
- "Sao như thế?" Anh cười cười có vẻ xấu hổ:
- "Dạ. Em được về phép. Ham chơi quá đà. Không dám trở lại đơn vị cũ. Nhà em ở Sài Gòn. Lại nữa, em thích Nhảy Dù. Em đăng Nhảy Dù cho đến nay. Bây giờ em là lính của ông thầy."
Tôi ôn tồn, tiếp:
- "Đơn vị Biệt Động Quân của anh đóng ở đâu?".
- "Dạ. Tận ngoài Trung, Pleiku; Kontum; có khi An Lão; Bồng Sơn; Tam Quan..."
- "Sao lạ thế ? 15 có gì làm cho anh thuần tính ?"
- Em không biết 15 có gì. Em không dám ba gai nữa, khi làm lính của 15. Khó giải thích quá. Em có dịp cùng 15 ở trận Thường Đức năm rồi. Sau đó là trận Đức Hoà, Đức Huệ nữa. Tôi thích thú, tiếp:
- "Anh có biết 15 là thầy của tôi không ?"
- Dạ. Ông thầy quen biết 15 trước khi đến đây sao ? Tôi nói:
- "15 dạy quân sự cho tôi vào năm 1972. Tôi là khóa đàn em của ông ấy."
Một đêm đi qua trong yên ổn. Yên ổn, có nghĩa là sự yên ổn của đơn vị Nhảy Dù chúng tôi. Chúng tôi đang ở tại chiến trường, một chiến trường; một mất; một còn. Đạn lạc, bom nổ ầm vang. Ánh sáng tóe lửa cùng khắp.
Sáng hôm sau, ngày 23 tháng 4 năm 1975, hai người lính khinh binh đưa 2 anh lính gài mìn vào gặp tôi. Lúc ấy trời chỉ tờ mờ sáng. Ánh mặt trời soi rõ trên không trung; mặt dù vẫn còn lấp ló đâu đó ở phía bên kia cành cây. May mắn cho chúng tôi, từ ngày đến đây, mưa chưa đổ xuống hột nào. Hai anh Hạ Sĩ chào tôi, một trong 2 anh nói:
- "Chào ông thầy. Ông thầy muốn tụi em gỡ mìn chưa ?"
Tôi nhìn 2 anh, chậm rãi nói:
- "Để yên đó. Không cần gỡ ngay bây giờ." Họ có vẻ ngạc nhiên, nhìn tôi, không nói lời nào. Tôi hiểu ý, và dặn dò:
- "Tất cả mọi mìn bẩy mà hai anh gài. Hai anh cần bao lâu thì gỡ tất cả an toàn ?" Người này nhìn người kia, trả lời:
- "Dạ cần từ 10 đến 15 phút."
Tôi ra lệnh:
- "Bây giờ hai anh đến vị trí đặt mìn của mình, kiểm soát lại một lần nữa cho chắc ăn. Kế đó. Hai anh lần mò những nơi không đặt mìn, và giả như anh đặt mìn bẩy ở nơi đó. Càng rộng; càng xa càng tốt. Sau khi là việc này xong, trở về ăn sáng, và tập Thái Cực Đạo. Muốn không ?"
Thế là mấy tiếng cười rật rật; sung sướng vang lên, trong bầu không khí ngột ngạc của tử chiến.
Tôi cho toán lính Nhảy Dù tập những thế cận chiến căn bản thiết thực; mà họ cần cho sự sống khi cận chiến. Tôi lần mò đến bên cạnh một anh binh nhất, tôi hỏi vào tai anh:
- "Anh là người Bình Định phải không ?" Anh ta ngưng tập, và đứng thẳng nói:
- "Dạ, em là người Phú Phong."
Phú Phong là một thị trấn nhỏ nằm trên Quốc lộ 19; từ Qui Nhơn dẫn đến Pleiku. Tôi hỏi:
- "Anh có biết võ Bình Định không ?"
Anh kính cẩn nói:
- "Dạ biết. Em có cơ hội tập võ Bình Định 4 năm. Ba em dạy em."
Tôi hỏi anh:
- "Tôi muốn anh giúp tôi, dạy lại cho bạn bè của anh những thế cận chiến. Anh bằng lòng không ?"
- "Dạ.
- Dạ. Em sẽ làm theo ý của ông thầy."
Thời gian trôi qua thật nhanh. Tôi cho nghỉ tập. Thế là mọi việc xảy ra như một cái chợ. Nhìn trung đội lính của tôi cười cười; nói nói; xôn xao bàn tán; mà lòng xót xa. Tôi và họ chẳng phải là anh em; hay bà con thân thích, nhưng sao lòng tôi lo lắng cho họ hơn cả bản thân mình.
Mặt trời nằm ở đỉnh đầu, không khí trong lành. Đạn nổ nhiều hơn hôm trước. Lòng tôi thấp thỏm, nhưng binh sĩ của tôi xem như chẳng có gì đáng lo. Họ vẫn nói nói cười cười như mọi ngày. Họ đi tới đi lui, chọc ghẹo nhau; như chẳng khác nào họ đang đi cắm trại hè.
Bỗng tiếng la hét bên ngoài:
- "Mày theo tao. Vô đây. Vô đây. Gặp ông thầy."
Anh tiểu đội trưởng kéo lê một anh binh nhất, vừa giận dữ, vừa la lớn:
- "Ông thầy. Nó uống rượu."
Anh tiểu đội trưởng và anh binh nhất; trong nháy mắt; đã đứng trước mặt tôi, tôi hỏi:
Mỗi roi là một vết lằn sâu trên da thịt người lính tôi yêu mến. Da anh rướm máu, nhưng lòng tôi ướm máu. Người lính đau da thịt, nhưng tôi đau trong lòng. Tôi đưa tay phải thòng thòng xuống đất, ngón tay tôi xoay xoay; ra dấu; nhẹ nhẹ; nhẹ nhẹ một chút.
Nhưng nào có nhè nhẹ cho đâu.
Thọ phạt xong, anh binh nhất chào tôi:
- "Cảm ơn ông thầy" và đi nhanh về vùng vị trí phòng thủ của mình. Người tiểu đội trưởng nói vào tai tôi:
- "Em biết ông thầy muốn đánh nó nhẹ nhẹ một chút, nhưng như thế sẽ khó khăn sau này."
Đây là kỷ luật của lính Nhảy Dù sao ? Kỷ luật của trung đội 1, đại đội 151 Nhảy Dù sao ? Tôi nghĩ sau này không cần phải dùng cách này để phạt binh sĩ. Tôi có cách khác. Và cách khác của tôi; chẳng bao giờ được dùng. Không biết là Phúc hay Họa ?
5. Nhà Thờ Giáo Xứ Fatima Bình Triệu: [4]
Vào khoảng 3 hay 4 giờ chiều ngày 25 tháng 4 năm 1975, tôi nhận lệnh thu quân, và đưa trung đội về hướng ban chỉ huy đại đội. Khi chúng tôi đến đó; chúng tôi tiếp tục di chuyển thêm 5 hay 7 phút nữa. Trước mặt chúng tôi là một đoàn xe GMC; tôi không buồn đếm có bao nhiêu chiếc. Việc mà tôi làm; là hướng dẫn binh sĩ lên xe chẩn bị cho việc chuyển quân. Tôi không biết sẽ đi đến đâu.
Hình ảnh tượng trưng
Đoàn GMC di chuyển. Trung đội của chúng tôi ở xe sau cùng. Xe lăn bánh, nhưng tôi không biết chúng tôi đang đi về đâu; vì tôi không biết vùng đất này. Xe chúng tôi vượt qua khỏi nhiều khúc quanh đường đất; miền ruộng, và leo lên một con lộ trán nhựa. Đoàn GMC tiếp tục lăn bánh; không vội vã, cũng không quá chậm. Cảnh giao thông trên con lộ; có vẻ nhộn nhịp, nhưng không dấu được nét ưu tư, buồn chán. Người người; như muốn vội về nhà, hay muốn đi về trung tâm Sài Gòn; tìm sự an lành cho bản thân.
Khi đoàn xe dừng lại, thì lệnh xuống xe được ban hành. Chúng tôi rời khỏi xe GMC, và tấp vào lề bên trái của con lộ. Nhìn về hướng đầu đoàn xe, phía bên phải là một nhà thờ; mà bây giờ tôi mới biết là nhà thờ giáo xứ Fatima Bình Triệu. Nhà thờ này ở bên cạnh sông Sài Gòn; hướng Tây Bắc của cầu Bình Triệu.
Ở trước cổng và trên sân nhà thờ, có nhiều con chiên đi lễ. Kẻ ra; người vào, tấp nập ngược xuôi. Nét u uẩn hằng sâu trên gương mặt lo lắng; sợ hãi. Họ đến đây cầu xin đức Chúa Trời ban phước lành cho gia đình, và thân nhân của họ. Tôi ước đoán; từ nơi tôi đổ quân đến cổng nhà thờ; vào khoảng 90 hay 100 thước. Rác rến, giấy lộn, vỏ xe hư hỏng, vân vân, vung vãi khắp nơi. Một cảnh tượng tiêu điều, rùng rợn; cơ hồ muốn đưa con người ta vào cõi chết.
Chớp mắt, họ cách xa tôi, xa tôi. Và họ chiếm bờ đất trước khi trung đội đến nơi. May mắn cho chúng tôi. Địch quân không chờ sẵn ở bờ đê bên kia. Tiến quân theo cách này, lòng tôi không nỡ, nhưng có còn làm gì hơn. Tôi thật hãnh diện được may mắn làm cấp chỉ huy trực tiếp của 2 trong 27 người lính Nhảy Dù này; họ; đầy lòng can đảm; chí khí và trung kiên. Cho nên,
không thể dùng cấp bậc để đo lường sự can đảm, khí tiết và lòng trung kiên của người lính; trong thời chinh chiến.
Và khi nhắc lại điều này; họ; hai người lính khinh binh, mà tôi vừa có duyên gặp trong mấy ngày hôm nay. Họ tự nhận mình là lính khinh binh, bình thường; người ta gọi họ là cận vệ; hay gạt đờ co. Với tôi; họ là người anh em thân thiết của tôi ngoài mặt trận; người mà tôi có thể chết cho họ sống.
Tôi là người ngoài Trung. Họ là người trong Nam. Chúng tôi chưa có dịp tâm tư tình cảm gì cả. Tôi và họ; nếu nói cho cùng là người dưng nước lã; cũng không sai. Tôi và họ chưa có ân oán; tình thù gì cả, cũng không có tình sâu nghĩa nặng. Thế nhưng trước họng súng của kẻ thù, họ lại dành phần đi trước. Họ chắn đạn cho tôi. Họ dùng tấm thân trai trẻ mà cha mẹ họ sinh ra; để bảo vệ cho tôi; một kẻ xa lạ. Vì đâu, hay tại sao họ che đạn cho tôi ? Có ai giải thích giùm ? Giữa họ và tôi có tình gì ? Tôi thầm cảm ơn hai người lính khinh binh; can đảm và trung hậu năm xưa.
Bây giờ, có lẽ họ đã là ông nội, hay ông ngoại rồi. Họ còn ở quê nhà, hay lưu lạc nơi đâu? Tôi luôn luôn cầu mong họ; những người lính Nhảy Dù anh dũng của tôi; và gia đình được an khang, hạnh phúc.
Trong chớp mắt, chúng tôi đã tràn ngập bờ ruộng bên kia, không một giọt máu.
Bờ đất mà chúng tôi vừa chiếm được, dài khoảng 50 thước, và rộng khoảng 10 thước. Có nơi nhô ra khoảng 15 thước. Mặt đất lô nhô, gập ghềnh, có nhiều chỗ trũng; được bao phủ bỡi một lớp cỏ xanh tươi, mượt mà. Khi chúng tôi đến, nơi này như sắp biến thành một vùng đất chết. Từ xưa đến nay, nơi nào mà đơn vị Nhảy Dù đưa quân đến; có bao giờ là nơi dùng để rong chơi, hưởng thụ thú vui điền viên ?
Trong chớp mắt, một trong 3 Tiểu đội trưởng đến bên tôi, chào và nói:
- Ông thầy có muốn đi xem cách phòng thủ của tụi em không ?
Tôi nói:
- Đi.
Tôi theo anh ta đến tận phía xa cùng, bờ bên phải của nhà thờ. Tôi lần lượt kiểm soát cả khu vực bờ đê trước mặt nhà thờ. Và binh sĩ của tôi hướng mũi súng về phía xa xa kia; như để bảo vệ con chiên của Chúa. Và đó là nơi bộ chỉ huy đại đội đóng quân.
Tôi thật bất ngờ; vì đây là lần đầu trong đời; tôi thấy một đơn vị Nhảy Dù dàn quân bố trận một cách nhanh chóng. Trong chớp mắt, họ đã xong hầm hố phòng thủ; thật khôn ngoan và chắc chắn. Trung đội lính của tôi, có lẽ họ có tình ý tương thông, như hiểu ngầm ý của nhau. Chưa cần lệnh của tôi, họ đã tự phân phối vị trí, mà mỗi một nơi; họ có thể tiếp ứng nhau khi cuộc chạm súng xảy ra.
Ba người Tiểu đội trưởng đến bên tôi, chào và hỏi:
- Ông thầy thấy thế nào ?
- Có cần tụi em sửa đổi gì không ?
Tôi hài lòng, vui vẻ đáp:
- Ba anh và lính của chúng ta có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Tốt lắm. Tôi không có ý kiến.
Họ tỏ vẻ hãnh diện, khoe:
- Ba đứa em "Ăn Rơ" với nhau, luôn luôn là như thế.
Tôi nhấn mạnh 3 tiếng "Lính Nhảy Dù." Tôi lệnh cho anh lính; người đã mang cô gái đến với tôi:
- "Trả cô bé trở lại vị trí cũ, và theo dõi cô ta rời khỏi vùng này."
- "Dạ."
Anh ta đưa cô bé đi, trước sự ngạc nhiên của nhiều người lính xung quanh tôi.
Chiếc bóng nhỏ thó; đen đen; dần dần mất hút khỏi ánh nhìn của chúng tôi; chìm trong ánh sáng mờ mờ, tỏ tỏ, của buổi hoàng hôn ảm đạm. Tôi đã thả đi một tên du kích con. Đúng hay Sai ?
Tôi không cần biết là Đúng, hay Sai vào lúc này. Chúng đã biết đơn vị chúng tôi đóng quân ở đây rồi. Tôi chỉ biết có hai trường hợp có thể xảy ra:
1. Nếu chúng có gan tấn công đêm nay, chúng tôi sẵn sàng;
1. Cộng Sản Việt Nam (Cộng Sản quốc tế) chiếm Miền Nam Việt Nam (chiếm cả Việt Nam). 2. Cộng Sản quốc tế tan rã năm 1991.
a. Cộng Sản Trung Á như Kazakhstan, Uzbekekistan, Turkmenistan, vân vân, tách rời khỏi Cộng Sản Liên Bang Nga
b. Cộng Sản Đông Âu, gồm Đông Đức, Ba Lan, Czechia, Hungary, Romania, Slovakia, Hungary, Croatia, vân vân, tách rời khỏi Cộng Sản Liên Bang Nga.
Khi ánh đèn leo lét phát ra từ nhà thờ và vùng phụ cận, thì màn đêm cũng đã trùm xuống một thứ gì làm tôi ngạt thở. Thỉnh thoảng; tiếng đạn pháo kích nổ lên liên hồi; từ phía xa xa kia, ở hướng đông bắc của chúng tôi. Vài chiếc trực thăng, và L19 bay lờn vờn trên bầu trời đầy sao; như muốn đùa vui với tia đạn chớp của phòng không địch. Tôi thật cảm phục những anh hùng Không Quân của QLVNCH. Sau đó, những tràng đạn từ trên không trung rải xuống như gầm thét, và mất hút.
May mắn thay, đơn vị chúng tôi đã hưởng được đêm vàng son, yên ổn, tại khu vực này. Có lẽ địch lo sợ đụng phải lính Nhảy Dù.
Trong khi các tiểu đoàn khác của Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù như Tiểu Đoàn 12, hay 14 chạm nhẹ với quân du kích ở vùng đông bắc chúng tôi, thì đại đội 151 chúng tôi chưa mất một viên đạn nào. Đạn của tôi vẫn nằm trong nòng súng, và chờ. Chờ nhả đạn bất cứ khi nào. Tinh thần chiến đấu của binh sĩ Nhảy Dù còn nguyên vẹn. Hàng ngũ chỉnh tề. Chờ lệnh.
6. Giữ an ninh phía nam đầu cầu Bình Triệu - Đoàn người chạy về Thủ Đô ? [4]
Chiều ngày 27/4/1975, tôi được lệnh thu quân về vị trí cũ; trước mặt nhà thờ. Sau đó, trung đội của tôi di chuyển theo đại đội 151 Nhảy Dù. Trời chiều ảm đạm, nhưng con chiên và dân chúng trong vùng; không mệt mỏi; tụm lại thành nhiều nhóm nhỏ; trao cho chúng tôi đồ ăn, nước uống với tình quân dân cá nước. Mắt họ không dấu được sự ưu phiền; sợ hãi; pha lẫn với niềm hy vọng chứa chan. [xem hình trên - số 1]
- "Cố gắng lên. Các anh lính Nhảy Dù."
- "Cố gắng lên. Các anh lính Nhảy Dù."
Miệng họ mếu máo. Mắt họ rưng rưng. Từng giọt lệ. Từng giọt lệ trào ra từ trái tim hiền hậu của người dân miền Nam chân chất.
Tôi bước đi mà lòng đầy an ủi. Đó là lý do tại sao QLVNCH chiến đấu. Chúng tôi chiến đấu cho dân chúng tôi. Chúng tôi chiến đấu để mang lại Tự Do cho dân miền Nam. Hãy nhìn lại tất cả mọi trận chiến. Khi chiến sự xảy ra nơi đâu, dân chúng luôn luôn chạy về phía quân đội Quốc Gia (QLVNCH) để tìm sự che chở, cứu thương và giúp đỡ. QLVNCH; một quân đội, một tay chống giặc, một tay cứu dân.
Trung đội 1 rảo bước; nối đuôi nhau thành hàng một, bên lề phải con đường. Tôi đi bên trái của họ. Lúc tôi ở gần đầu hàng quân, lúc tôi ở gần cuối hàng quân. Mỗi khi tôi gần người lính nào, tôi đều bắt gặp cặp mắt trao gởi. Những ánh mắt không diễn tả được bằng lời. Ánh mắt của tôi, cử chỉ của tôi, sắc mặt của tôi, và sự tự tin của tôi là niềm hy vọng của họ. Họ trao sự sống của họ cho một người lính trẻ Võ Bị, vừa ăn vài ngày cơm của Nhảy Dù. Tôi tự nói với mình:"Các anh trao gởi niền tin đúng người rồi. Yên tâm đi."
Không biết bao lâu, chúng tôi đã đến 1 xóm nhà; dọc 2 bên con lộ. Nơi đây, một số căn nhà 2 tầng, một số căn nhà 3 tầng. Thỉnh thoảng, một vài tia mắt nhìn ra từ cửa sổ; cùng nét lo âu. Con lộ trở nên vắng lặng, thật ngột ngạt. Một vài căn nhà xiêu vẹo, vách gỗ, lỗ chỗ, hư hỏng. Cảm giác của tôi không được ổn. Tôi đưa tay trái ra, hướng về phía tiểu đội sau cùng, và phất tay từ nơi họ sang bên kia đường, nói:
- "Hai hàng."
Lập tức trung đội của tôi có đội hình hai hàng, với tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tôi có cảm giác là đại đội 151 đang thu quân (lui quân, thu binh, hay lui binh). Nét mặt các binh sĩ của tôi; không còn vẻ hồn nhiên ngây thơ; như những ngày qua, nhưng không dấu được sự hiên ngang của lính Nhảy Dù.
Tôi bắt đầu rẽ phải. Phía trước là một cây cầu bê tông cốt sắt (bây giờ tôi biết tên, là cầu Bình Triệu). Nước vẫn chảy hiền hòa dưới cầu như mọi ngày, nhưng ra vẻ khó chịu khi đoàn quân chúng tôi rảo bước tiến qua. Một dấu hiệu bất lành cho dòng sông.
Qua khỏi cây cầu, chúng tôi xuống một con dốc nhỏ. Cuối con dốc, con đường lệch về trái, và leo lên một triền đất hơi cao. Tôi được lệnh đóng quân tại vị trí này. Hàng quân bên phải của tôi chiếm 3 căn nhà, và hàng quân bên trái chiếm 2 căn, dùng làm nơi phòng thủ [xem hình trên - số 1].
Tôi lệnh cho binh sĩ yêu cầu dân trong những ngôi nhà này; tạm thời di chuyển đi nơi khác; để tránh trường hợp chạm súng xảy ra. Tôi vào căn nhà đầu bên phải, leo lên gát trên. Người đàn bà; khoảng trên dưới 40 và cậu con trai 9, hay 10 tuổi, đang thu dọn quần áo và vật dụng cần thiết cho việc ra đi.
Tôi nói:
- "Bà làm ơn rời khỏi nơi đây một thời gian. Khi nào yên ổn, bà lại về."
Tôi thầm cảm phục tình thương của dân chúng; dành cho chúng tôi; trong những ngày hành quân vừa qua. Tiếng pháo kích ngày càng dữ dội, nhất là đêm nay, 29/4/1975.
Những ngày qua, dù không nghe được tin tức, tôi vẫn đoán được; là có một số trong chúng tôi đã ra đi. Kẻ đi, người ở. Kẻ có cơ hội, ra đi. Người không có cơ hội, ở lại. Chúng tôi là chiến binh. Chúng tôi phải giữ an toàn cho kẻ đi, người ở.
Sáng sớm ngày 30/4/1975[xem hình trên - số 2], tôi được lệnh rời khỏi vị trí phòng thủ, và tiến quân, đóng ở phía Nam đầu cầu Bình Triệu. Trước mặt tôi, có rất nhiều người, đủ mọi thành phần. Nhất là binh sĩ của chúng ta (lính VNCH). Một số trong họ còn cầm súng trên tay. Có cả xe mang theo đại liên 50. Tôi lệnh cho người lính truyền tin:
- "Hỏi 15. Lính của mình từ các nơi chạy về đông quá. Bây giờ Làm sao ?"
Chưa đầy ba giây đồng hồ, anh ta nói:
- "15 lệnh cho ông thầy - Chận họ lại"
Nhìn đoàn quân của QLVNCH từ xa mà lòng tôi lo lắng. Tôi đã trải qua một cuộc triệt thoái khủng khiếp; từ Đà Lạt về Bình Tuy; tháng 3 vừa rồi. Trường Võ Bị, binh sĩ các nơi và dân chúng chen chân nhau rời bỏ Đà Lạt. Bao hỗn tạp, lộn xộn, khó khăn và nguy hiểm như hiện rõ trước mắt tôi lúc này.
Trước mặt tôi, bên phải lề đường, một cuộn dây kẽm gai xuất hiện từ khi nào tôi không biết. Thật may mắn cho tôi. Tôi khoác tay cho hai, ba anh binh sĩ:
- "Căng dây kẽm gai ra. Chận họ lại."
Thế là cuộn dây kẽm gai sẵn sàng chờ đoàn quân nhân; cán chính VNCH; cùng dân chúng, chạy về từ miền Trung, Long Khánh hay Biên Hoà...
Họ còn cách tôi 50 thước. Tôi bước ra giữa con lộ, lớn tiếng hỏi:
Từ cuộn kẽm gai; đơn sơ; đến người lính gần nhất vào khoảng 30 thước. Tôi đi về phía cuộn kẽm gai. Hai người khinh binh và truyền tin theo bước chân tôi. Chúng tôi đứng hàng ngang. Tôi đứng giữa. Hai bên là hai anh khinh binh. Người truyển tin đứng sau lưng tôi.
- "Anh em Nhảy Dù nghe lệnh. Bất cứ ai; bước qua hàng rào này mà không có lệnh của tôi. Tôi ra lệnh cho các anh - Nổ Súng."
Tất cả im phăng phắt. Tất cả mọi người trước mặt tôi từ quan đến lính, không ai dám nhúc nhích, bàn tán xôn xao. Thật là may mắn cho tôi. Người lính khinh binh lo sợ, nói:
- "Ông thầy đứng đây mà. Bắn trúng ông thầy sao?"
Tôi trả lời một cách chắc chắn:
- "Cứ nổ súng. Tôi chết thì sao? Cứ nổ."
Tôi nói với 2 người khinh binh:
- "Hai anh về vị trí phòng thủ của mình." Tội nghiệp cho 2 người lính thân cận của tôi. Họ ấm a ấm ớ:
- "Tụi em phải bảo vệ ông thầy."
Tôi quát lớn:
- "Đi ngay."
- "Dạ."
Thế là họ rời khỏi tôi mà lòng không nỡ. Tôi quay ra sau. Nhìn người mang máy, tôi nói:
- "Anh cũng đi."
- "Dạ"
Mọi người từ quan đến lính; đứng cách tôi khoảng 20 thước; đều nghe rõ ràng, từng lời đối thoại của tôi và lính Nhảy Dù trong đơn vị.
Nhìn qua đoàn người, tôi nhẹ giọng, nhưng nói thật lớn để phía sau nghe rõ:
- "Mong các vị sĩ quan và anh em binh sĩ yên lòng. Đơn vị trưởng của chúng tôi sẽ giải quyết cho qúy vị vào trung tâm Sài Gòn một cách tốt đẹp, bỡi vì trong đoàn quân của chúng ta đây; đã có một số Du Kích, và Cộng Quân trà trộn. Xin qúy vị cảnh giác."
Đoàn người tỏ ra nhẹ nhỏm, và hiểu sự quan trọng mà họ cần phải dừng lại.
Tôi nhìn ông Trung Úy, trưởng xa của chiếc GMC ở phía bên phải, cách tôi 20 thước, nhã nhặn xin phép:
- "Xin Trung Úy cho mũi súng đại liên hướng về phía sau. Nếu cần, chúng ta có thể trở tay kịp thời."
Ông Trung Úy lệnh cho người xạ thủ làm theo yêu cầu của tôi.
Một cái đầu chòm tới từ phía trái, bên kia hàng rào kẽm gai.
Tôi ngạt nhiên:
- "Ủa. Chào niên trưởng." Tôi đưa tay phải lên; chào ông Trung Úy Biệt Động Quân. Ông là một niên trưởng khóa 26, mà tôi từng gặp trên sân cỏ trung đoàn sinh viên sĩ quan năm nào.
Chào ông mà lòng tôi không biết làm sao, vì khi ông gọi tên tôi; có nghĩa là ông muốn được phép đi qua rào cấm của tôi. Không hiểu tại sao tôi buột miệng hỏi ông ta:
- "Niên Trưởng có muốn gia nhập đơn vị Nhảy Dù của chúng tôi, và giữ an ninh tại vị trí này không?"
Tôi nhận một câu trả lời đanh thép:
- "Muốn. Sao không muốn."
Tôi tiến về phía ông, hỏi:
- "Sao niên trưởng ra nông nỗi này?"
Ông lắc đầu, nói:
- "Đơn vị của tôi chiến đấu cho đến hết đạn, cũng không có tiếp tế. Cho nên, phải tự thoát thân."
Chúng tôi chưa xong việc chào hỏi, liên tiếp, một vài âm thanh có vẻ quen quen:
- "Tôi hỏi các niên trưởng, tất cả mọi người có muốn gia nhập vào đơn vị Nhảy Dù của tôi tại đây không ???" Họ đồng loạt trả lời:
- "Muốn"
- "Muốn"
- "Muốn"...
Tôi nói lớn:
- "Các niên trưởng đứng riêng phía bên này, Tôi chỉ tay phía bên trái cùng; bên kia hàng rào."
Thế là anh em Võ Bị, từ lớn đến bé dồn về một bên.
Tôi quay ra sau; tìm người lính truyền tin. Thật bất ngờ. Anh lính truyền tin của tôi không rời khỏi tôi nửa bước; từ khi tôi lệnh cho anh về vị trí phòng thủ.
- "Anh hỏi 15. Nơi đây có hơn 10 người Sĩ Quan Đà Lạt, muốn gia nhập đơn vị Nhảy Dù của chúng ta. 15 có muốn nhận họ không?"
Một âm thanh từ trong ống nói, phát ra một cách rõ ràng, mà ai ai cũng nghe được:
- "Muốn. Đưa họ vào đây."
Đây là lúc tôi thở ra nhẹ nhàng, tôi nói:
- "Thưa các sĩ quan và anh em binh sĩ. Đơn vị trưởng của tôi muốn nhận những người sĩ quan Đà Lạt này, và sát nhập họ vào đơn vị Nhảy Dù của chúng tôi; tại đây. Mong qúy vị yên tâm, đứng yên tại chỗ."
Đến đây, tôi xin cảm tạ sự kiên nhẫn của các sĩ quan và binh sĩ năm xưa. Bỡi sự thông hiểu của qúy vị; mà chúng ta đã tránh được một cuộc đổ máu không cần thiết.
"Quân ta bắn quân mình".
Tôi vì quân lệnh. Binh sĩ của tôi vì quân lệnh. Và tất cả chúng ta cũng vì quân lệnh mà máu đổ, đầu rơi.
Vào khoảng 11 giờ 15 phút, anh lính truyền tin, ghé vào tai tôi:
- "Ông thầy. 15 ra lệnh. ĐI." Có nghĩa là lui binh theo hướng cuả đại đội.
Tôi lập tức tiến về phía xa, đứng giữa con lộ, hướng mặt về bên trái (theo hướng rút lui của chúng tôi, từ phía Nam cầu Bình Triệu đi về phía nam), ra lệnh: - "Anh em nghe đây. Tất cả các binh sĩ ở trước mặt tôi. Lập tức qua bên phải."
Thế là tôi đã dồn quân về bên phải, sẵn sàng chuyển quân. Tôi đến bên đầu dây kẽm gai, và kéo về một phía. Lệnh cấm được mở. Và đàn ong bắt đầu vỡ tổ.
Trong khi đó, Lữ Đoàn 5 Nhảy Dù; nơi mà Thiếu Úy Nguyễn Tường Khóa 28, Nguyễn Văn Mẫn Khóa 28, Nguyễn văn Sáng Khóa 28, Trần Văn Lý Khóa 28, vân vân.., thuộc Tiểu Đoàn 16, đang trên đường Trương Minh Giảng đến Đại học Vạn Hạnh. Hãy nhìn sự hiên ngang của họ.
Sáng 30/4/1975, Tiểu Đoàn 16, Sư đoàn Nhảy Dù đang trên đường Trương Minh Giảng đến Đại học Vạn Hạnh, điểm phòng thủ vòng đai trong cùng bảo vệ Thủ đô Saigon. Hình: Thiếu uý Nguyễn Tường (Tony Nguyễn), người đang đưa tay lên nón vải.
Một hàng dọc, bên phải lề đường, chúng tôi tiến theo bước chân của đại đội 151. Leo lên con dốc nhỏ, và đi thẳng. Mồ hôi thấm cả áo lót bên trong, nhưng tôi không thấy mệt. Cái mệt mà tôi cảm giác là tại sao chúng tôi phải lui quân?
Tôi quan sát xung quanh cho trường hợp lệnh đóng quân bất thường. Trước mặt tôi, bên phải, là những tòa nhà 4, hay 5, ..., hay 7 tầng, ...
Binh
sĩ của tôi không phục, thì làm sao tôi phục. Tôi thà bị đầu
rơi, máu đổ. Tôi nhất định không phụ lòng kính yêu của họ. Dù
tôi có làm được gì to lớn hay không, tôi phải là một Sĩ Quan
Đà Lạt, xứng đáng mà họ đã từng mong ước. Lệnh
đầu hàng là trò chơi của kẻ hèn nhát, kẻ ham danh, ham lợi,
ham sống, sợ chết. Đó là trò chơi của những tên chính trị gia
bất lương.
Tôi đi mãi không biết bao lâu. Mệt lã người,
và ngồi xuống bên lề đường bên phải của một con đường lớn. Không
biết đây là con đường mang tên gì. Người, xe tấp nập như muốn dành
phần gì đó sau cơn khủng hoảng của đất trời.
Tôi ngước mặt nhìn ông, và trả lời trong chua chát, thất vọng: - Dạ. Tôi người miền Trung. - Cậu là lính Cộng Hòa phải không? Tôi nhìn ông và không trả lời. Ông tỏ vẻ cảm thông, nói: -
Tôi có 2 người con trai lớn. Một đứa là Đại Úy Thuỷ Quân Lục
Chiến. Còn thằng nhỏ là Trung Úy Biệt Động Quân. Ông ngồi sát
gần tôi, và dựa lưng vào bức tường, cạnh tôi. Nói trong đau
đớn, nghẹn ngào; - Không biết bây giờ anh em chúng nó ở đâu?
Tôi
đưa mắt nhìn vào cặp mắt đỏ hoe của người cha đáng thương. Ông
đã khóc. Ông khóc không ra lời. Những giọt nước mắt của bậc
sinh thành thật đáng yêu. Có lẽ má tôi ở ngoài Trung cũng đang
nằm trong tình cảnh của ông lão này. Tôi thở dài, nói: - Xin bác chớ đau lòng. Rồi từ từ 2 anh sẽ tìm về với bác.
Tôi
thở dài. Một hơi thở dành cho ông lão, dành cho 2 người sĩ
quan anh dũng của tôi, cũng là hơi thở dành cho chính bản thân
mình. Tôi ngước nhìn về bên kia đường, và rồi nhìn về phía xa
xa. Không biết phía xa kia là nơi nào. Ông đưa tay phải lên, và
chùi vội mấy giọt nước mắt; như không muốn cho ai nhìn thấy.
Ông hỏi nhỏ bên tai tôi: - Cậu có phải là sĩ quan Đà Lạt không?
Bỗng
tôi giật nẩy mình. Nhìn ông lão mà lòng buồn khó tả. Tôi đưa
tay trái lên, và nhìn vào chiếc nhẫn còn sót lại sau cuộc
chiến. Tôi nói: - Sao bác biết được tôi là sĩ quan Đà Lạt? Ông nói trong sự thương cảm: - Đứa con lớn của tôi đi khóa 23 Đà Lạt.
Trời
đất mênh mông, ông lão và tôi trở thành 2 kẻ cùng chung số
phận, một số phận đau lòng. Trong khi chúng tôi nhỏ to với nhau,
một chiếc xe Hồng Thập Tự chạy chậm chậm và dừng lại bên
cạnh lề đường. Nhân viên Hồng Thập Tự kéo ra khỏi xe nhiều
thùng đồ. Và sau đó, dân tị nạn kéo đến vây quanh chiếc xe. Ông lão bỗng đứng dậy, vừa đi về phía xe Hồng Thập Tự, vừa nói với tôi: - Để tôi xem việc gì xảy ra. Một lúc sau, ông về bên cạnh tôi và nói: - Nhân viên Hồng Thập Tự phát đồ ăn, đồ uống. Cậu đi với tôi không?
Ông vừa đi về phía chiếc xe vừa quay lại nói: - Đi. Đi. Cậu đi không? Tôi lắc đầu, nói nhỏ: - Dạ. Không.
Mười lăm phút sau, ông trở lại với 3 bịch gạo sấy và một ít nước uống trên tay. Vừa vui mừng vừa nói: - Cậu hãy lại đó. Người ta sẽ cho gạo sấy và nước uống. Đi. Đi. Tôi nhìn ông lão, lắc đầu: - Cảm ơn bác.
Tôi nhìn ông ngầm cảm ơn, và im lặng, mắt nhìn về phía xa xa.
Bây
giờ là lúc ông lão nhìn 2 cô bé bên cạnh tôi một cách ngạc
nhiên. Ông dúi bịch gạo sấy vào tay một cô bé, không nói, nhưng
tỏ vẻ như:
- "Lấy đi. Cả 3 người cùng ăn."
Cô bé tiếp bịch gạo sấy từ tay ông lão, kèm theo ánh mắt cảm ơn.
Hai
cô bé đi xin nước và đổ vào bịch gạo sấy. Thế là 3 chúng tôi
có 1 bữa ăn thần tiên. Chúng tôi chỉ có 1 cái muổng nhựa nhỏ.
Tôi đưa muổng cơm sấy vào mồm mà lòng như muốn khóc. Nhưng làm
sao tôi khóc được. Tôi chẳng còn nước mắt để khóc. Tôi đưa cái
muổng ấy cho 1 cô bé, và rồi cái muổng đến phiên cô bé kế
tiếp.
Chiếc
muổng nhỏ thó đến tay tôi. Tôi cầm chiếc muổng, và có cảm
giác như chiếc muổng nặng ngàn cân. Tôi đưa chiếc muổng vào
bịch cơm sấy. Tôi ngần ngà, ngần ngừ, rồi đưa qua cho cô bé bên
kia mà lòng trĩu nặng ưu tư. Cả 2 cô ngạc nhiên, nhưng chẳng mở
lời. Họ đưa mắt nhìn nhau rồi nhìn tôi như van lơn, khuyến
khích. Tôi dúi chiếc muổng vào tay họ.
Bữa
cơm thần tiên và đạm bạc cũng xong. Tôi tiến về phía bên kia
con đường. Tôi lục lội trong đống rác tại 1 gốc cây cổ thụ và
tìm được 1 tấm chăn rách nát. Tấm chăn nhỏ thó, cỡ khổ 1
thước và 1 thước rưỡi.
Ba
chúng tôi đến với nhau trong vô tình vì chinh chiến. Chúng tôi
không hề nói với nhau lời chào hỏi nào khi gặp mặt. Chúng tôi
cùng nhau ăn chung 1 bịch cơm sấy.
Đêm hôm ấy, 30 tháng 4 năm 1975, ba chúng tôi cùng ngủ chung trên tấm chăn nhỏ bé, trên sàn đất, cạnh bờ tường của một nhà thương nào đó mà tôi không biết tên. Tôi nằm giữa, 2 cô nằm 2 bên. Chúng
tôi cảm ơn Trời Đất vì giữa 3 chúng tôi có 1 thứ tình cảm
trong sạch và tinh khiết mà Trời Đất đã ban cho loài người. Ấy
là tình người. Tình giữa người và người trong cơn loạn lạc.
Và đây cũng là một kỷ niệm đẹp; khó quên của đời người.
Và rồi chúng tôi chia tay nhau cũng trong vô tình, không một lời từ biệt. Cho đến bây giờ, tôi không có cơ hội gặp lại 2 cô bé dễ thương ấy nữa.
Không
biết giờ này, năm 2022, hai cô khỏe mạnh hay không? Chồng con
thế nào? Còn ở quê nhà hay lưu lạc chân trời góc biển nơi nao? Tôi chỉ mong 2 cô sống trong hạnh phúc gia đình.
Tôi
bước về phía trước, nhưng chẳng biết mình đi đâu. Làm sao để
xuôi Nam tìm gặp tướng Nguyễn Khoa Nam, trong khi không còn một xu
dính túi.
Nhớ
lại thời kỳ huấn luyện 8 tuần huấn nhục cho khóa 31. Thật là
khó khổ. Có bỏ công sức huấn luyện đàn em, tôi mới hiểu được
công lao của khóa 25 đã bỏ ra cho chúng tôi; khóa 28.
Hành
xác khóa 31 là để giúp họ có cơ hội trở thành 1 sĩ quan
xứng đáng, và hữu dụng cho dân tộc sau này. Muốn như thế, không
phải là điều dễ dàng. Khóa 31 chạy bao nhiêu, thì tôi chạy
bấy nhiêu. Họ lắc la lắc lư, thì tôi có kém gì. Họ chạy nhừ
tử, thì tôi cũng nhừ tử như họ. Không biết họ có hiểu cho
không?
Họ
hiểu, hay không hiểu không quan trọng lắm. Điều quan trọng là;
tôi phải hoàn thành bổn phận của một Sinh Viên Sĩ Quan Cán Bộ
Tân Khóa Sinh; một cách xuất sắc mà tôi có thể. Tâm hồn và
thể xác của tân khóa sinh khóa 31 nát như tương. Nhưng được bồi
thường bằng cơm Phạn Xá, và tình yêu thương và trách nhiệm mà
chúng tôi, khóa 28, 29 và 30 dành cho họ. Còn tôi, chỉ có mỗi
ông ba râu tiếp sức. Cứ mỗi lần thăm ông, là bị ông móc túi.
Thế là bao nhiêu tiền dành dụm cả nửa năm, để về phép, không
cánh mà bay.
Bây giờ làm sao đây? Làm sao đi tìm tướng Nguyễn Khoa Nam. Thật là thiên nang vạn nang.
Tôi
tiếp tục rảo bước theo đoàn người, nhưng tôi không biết là họ
đi về đâu. Tôi cứ lần mò theo họ, và rề rà bên cạnh một cô bé
14 hay 15 tuổi, bắt chuyện:
- Anh muốn đến xa cảng miền Tây, nhưng anh không biết đường. Em có thể chỉ giúp cho anh được không?
Vừa đi cô bé vừa trả lời:
- Anh đi lộn đường rồi. Anh quày lại, và quẹo trái.
Tôi
đi ngược lại con đường tôi đang đi, và quẹo trái. Tôi đúng là
một tên ngáo, vừa ngáo, vừa mù.
Theo sự chỉ dẫn của một vài
người, tôi đã lò mò đến chợ An Đông. Trước mặt tôi là chợ An Đông. Qua khỏi chợ An Đông, tôi tiếp tục rảo bước, nhưng lòng không chắc chắn là đúng đường.
Tôi
không còn nhớ tôi đã dùng bao nhiêu thời gian để lội bộ và
tìm đường đi đến bến xe miền Tây. Khi tôi đến đó, mặt trời đã
xuống thấp.
Chiếc
xe lăn bánh rời khỏi bến xe miền Tây với một cảm giác nặng
nề, mệt mỏi. Tôi gục đầu ngồi phía sau cùng; như kẻ chết rồi;
chết nhưng chưa được chôn. Trong xe có trên dưới 10 người. Mặt
mày họ hốt hoảng, lo âu, trao đổi nhau những tin tức chiến sự.
Một bà tuổi vào khoảng 50; phía trước mặt tôi, ra vẻ giận dữ,
quát tháo:
Những
âm thanh than vãn, lo âu, nguyền rủa, lo sợ như rên siết, ...
bỗng im bặt khi chiếc xe vừa qua khỏi một chiếc cầu nhỏ, và
dừng lại. Ông tài xế xuống xe, và nói lớn:
- Xuống xe đi bà con ơi. Không đi tiếp được. Phía trước người ta chận lại rồi.
Tôi
đưa mắt nhìn quanh bến xe Mỹ Tho. Đây là một bến xe nhỏ; nằm
bên trái cạnh con đường lộ xuôi Nam. Tôi nhìn bà và cười mỉm
cho qua chuyện.
Bà bảo cô cháu nhỏ đi mua một ít thức ăn, nước uống, và hướng về tôi hỏi:
- Cậu ăn uống gì chưa?
Tôi
không trả lời và chỉ lắc đầu nhè nhẹ. Bà nhìn tôi như cảm
thông cho một kiếp người. Không hiểu sao bà lại muốn làm thân
với tôi, ngay giữa cơn đại hồng thủy đang trút xuống đầu bà.
Cô
cháu bé mang 3 ổ bánh mì thịt và nước trà đá về đến. Bà
chia cho mỗi người một ổ. Tôi không nhận ổ bánh mì; đầy tình
thương mà bà dành cho tôi; như dành cho đứa con lưu lạc của bà.
Tôi chỉ lắc đầu khi tay bà vẫn còn giữ ổ bánh mì ở trước
mặt tôi. Hai cô cháu ngạc nhiên trước sự từ chối lòng tốt của
họ. Bây giờ cô bé mới mở lời từ khi gặp tôi:
- Anh cố gắng ăn chút gì đi. Việc gì còn có đó. Anh đừng lo nhiều quá.
Sau một vài câu thăm hỏi đơn sơ, tôi đứng dậy và đi theo hai cô cháu người miền Tây.
Họ
đưa tôi đi về phía bên kia con lộ, và đi dọc theo con sông mà tôi
không biết tên. Chừng 70 hay 100 thước, họ rẽ trái và đưa tôi
vào một ngôi chùa. Tôi cứ lầm lì theo họ như kẻ mất hồn. Bà
thở nhẹ và đặt túi hành lý đơn sơ xuống một khoảnh đất nhỏ;
được tráng lớp xi măng, nói:
Tôi nhã nhặn trả lời cho sự lo lắng của bà: - "Dạ. Tôi là lính Cộng Hòa." Bà tiếp với niềm kính mến: - "Cậu là sĩ quan Đà Lạt phải không?" Tôi đi từ sự kinh ngạc này, đến sự kinh ngạc khác. Tôi hỏi: - "Sao cô biết tôi là sĩ quan Đà Lạt?" Bà đưa mắt nhìn tôi, lòng đầy cảm phục, lo lắng: - "Tôi không biết." Bà đưa mắt về phía cô cháu, và nói một cách chắc chắn: - "Nó biết." Cô gái nhìn tôi, rồi đưa tay chỉ vào tay trái của tôi, cô nói vớ sự ngưỡng mộ: - "Chiếc nhẫn trên tay anh đó." Tôi nhìn bà cô mà lòng đầy ưu tư: - Dạ. Phải
Bà cô nhìn tôi tỏ vẻ lo lắng: - "Cậu đang muốn đi đâu?" Tôi nhìn bà mà lòng không ổn, trả lời: - "Tôi muốn đi Cần Thơ." Bà nói tiếp như lo lắng cho đứa con trai lưu lạc của bà: - "Cậu đi Cần Thơ làm gì? Quê cậu ở ngoài Trung mà. Sao không về tìm gia đình?"
Bà hỏi liên tiếp chẳng cần tôi trả lời. Tôi gục đầu nói nhỏ: - "Tôi muốn tìm tướng Nguyễn Khoa Nam." Bà giật mình, và nói nhỏ bên tai tôi: - "Tìm tướng Nguyễn Khoa Nam làm gì?"
Người
thiếu phụ ngồi bên cạnh, im lặng một lúc lâu, nhưng chị bỗng
lên tiếng khi nghe chúng tôi nói đến tướng Nguyễn Khoa Nam: -"Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát rồi."
Tôi
như từ trên trời rơi xuống. Một nguồn tin làm tim tôi tê lạnh.
Thế thì còn gì? Hết rồi. Hết đường cho tôi rồi. Tôi bình tĩnh
và nhã nhặn hỏi chị:
- "Chị nghe tin này từ đâu?" Người thiếu phụ nhìn tôi, kính cẩn nói: - "Dạ em chạy ra từ trại gia binh của quân đoàn bốn ở Cần Thơ." Tôi hỏi: - "Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát lúc nào?" Chị trả lời trong đau khổ: - "Dạ. Sáng nay." Có nghĩa là tướng Nguyễn Khoa Nam ra đi sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975. Tôi hỏi: - "Chồng chị đâu? sao chị bồng cháu đi một mình?" - "Dạ. Chồng em bị thất lạc. Bây giờ em cũng không biết anh ấy ở đâu."Người thiếu phụ quay lại dỗ con ngủ.
Cảm tạ ngôi chùa; nơi đã một lần cho một sĩ quan trẻ Đà Lạt ngủ nhờ.
Tôi
cũng cảm ơn lòng yêu thương của hai cô cháu, mà tôi không còn
nhớ tên. Cầu mong hai cô cháu vạn phúc an khang, cho dù còn ở
quê nhà, hay trôi dạt nơi đâu.
Các anh em binh sĩ Nhảy Dù thuộc trung đội 1, Đại Đội 151 thân mến;
Tôi
đã làm điều mà tôi đã nói với anh em, trong lúc chia tay năm
nào, một cách nhiệt thành. Tôi đã làm hết sức. Tôi đã dùng
hết khả năng của mình. Tôi đã tận nhân lực. Bây giờ, các anh
đã thành ông nội, hay ông ngọai rồi. Tôi chỉ mong ơn trên chăm
sóc cho anh em và gia đình. Chúc Vui và hạnh phúc.
*****
Cứ vào mỗi tháng 3 và tháng 4 mỗi năm là tôi có cảm giác không yên.
Tim tôi đau nhói, dù rằng áp suất huyết của tôi hiện tại đo
được 117/79. Đó là áp suất huyết lý tưởng cho một người khỏe
mạnh. Bụng tôi cồn cào. Nhất là năm nay, tháng 3, và 4/2022. Sau
khi thưởng thức món ăn thức uống mà vợ tôi lo lắng, tôi vào
phòng, và đóng cửa lại. Vợ tôi nhìn tôi mà lòng xót xa:"Thôi
đi anh. Lâu rồi mà. Mình cũng được. Không cần tự hành hạ mình
nữa đâu." Tôi biết chứ. Có ai lại khờ khạo đến mức tự hành
hạ mình đâu. Tôi vẫn còn tráng kiện và tỉnh táo mà. Tôi cứ
mãi đi ra, đi vào; thẩn thờ như kẻ mất hồn. Tự tìm kiếm và
hỏi cao xanh, nhưng tôi vẫn không tìm ra PHƯƠNG THUỐC để chữa VẾT THƯƠNG năm xưa. Vết Thương gì mà không tìm được thuốc chữa, dù rằng cơ thể của tôi vẫn còn nguyên vẹn, và đã qua 47 năm rồi?
Nhiều
bằng hữu nhắc đến hình ảnh những Hoàng Diệu tuẫn tiết đời xưa. Tôi
không biết giá trị của những bình luận đó ra sao. Điều tôi biết chắc là
khi những con đại bàng trở về tổ cũ bay lượn vòng chót, sau khi ông Mẫu
thay mặt tướng Minh, hạ lệnh bỏ súng quy hàng, đêm hôm 29, nhiều giờ sau
khi lệnh án binh và nạp súng ban ra, anh em tiểu đoàn 14 và 15 lặng lẽ
cột chặt dây giày. Kiểm soát lại vũ khí. Đóng chặt cơ bẩm, mở khóa an
toàn.
Những
người lính Mũ Đỏ lặng lẽ, không ai nói một lời, trong sự yên lặng lớn
của ban đêm. Rồi như xé toang màn đêm dày đặc, những tiếng nổ chấn động
vang dội, những tia sáng tóe lên. Mười sáu chiếc xe tăng địch bị đốn gục
trên đoạn đường từ Bà Quẹo đến Tham Lương. Sáng 30, chúng tôi đi trong
vùng Tân Bình. Nhìn mặt trời mọc trên quê mẹ một lần chót rồi thay áo
quần. Tan hàng. Lần đầu tiên tan hàng không hồi âm «cố gắng», như đã
ngàn lần hô to. Mũ Đỏ Lê-Minh-Ngọc.
44 năm mình không quên được vị linh mục trường trung học Nguyễn Bá Tòng SaiGon.
Thưa cha con là người lính nhảy dù cuối cùng được cha cho con môt bộ đồ của cha và một đôi dép, để con ra khỏi cổng trường, sau khi có lịnh buông súng đầu hàng của tt dương văn minh, từ đó đến nay con luôn nhớ trong lòng, và vị masuer của trường.
Những lời cám ơn nầy không biết cha có đọc được không, nhưng trong lòng con trút được nỗi tâm sự mang trong tâm bao nhiêu năm.
Anh ngược xuôi nơi phố phường hoảng loạn Bảo vệ dân...khi đất nước nguy nan Ngăn giặc thù...chặn bước lũ xâm lăng Giây phút cuối giữ an toàn đất mẹ Phút Nguy nan...anh âm thầm lặng lẽ Cống hiến đời... làm tròn phận chinh nhân Quyết đập tan cuồng vọng lũ vô thần Trọn trung nghĩa An Dân và Bảo Quốc 4-6-22
5. Cũng ngày này, 47 năm về trước (21/4/75 - 21/4/22) - Vũ Văn Táp A28
Ta rời Trường , nhập cuộc cạnh đàn anh. Nhưng than ôi ! Chí cả , mộng không thành. Vận nước mạt, cũng đành quăng vũ khí. Tan giấc mộng "Tang bồng, hồ thỷ" Ta nghẹn lòng, rơi lệ khóc Giang san. Làm gì hơn, khi hèn tướng qui hàng? Đành nuốt hận, nhìn Giang san thay chủ.
10. Tony Nguyễn (Nguyễn Tường) TĐ16/ND Sáng 30/4/1975, Tiểu đoàn 16, Sư đoàn Nhảy Dù đang trên đường Trương Minh Giảng đến Đại học Vạn Hạnh, điểm phòng thủ vòng đai trong cùng bảo vệ Thủ đô Saigon. Hình: Thiếu uý Nguyễn Tường (Tony Nguyễn), người đang đưa tay lên nón vải. Hình nầy của nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Đạt đưa lên mạng. Ngày 30/4/1975, ông Nguyễn Đình Đạt khi ấy mới 19 tuổi. Niềm đam mê nhiếp ảnh đã giúp ông trở thành nhân chứng đặc biệt, khi lưu lại những thời khắc của lịch sử dân tộc trên khắp các nẻo đường Sài Gòn trong ngày lịch sử đó.
11. Anthony Hayward
* Những Ngày Cuối tháng 4/1975 - Anthony Hayward K29/SĐ18/BB Khóa 29 ra SĐ Dù tổng cộng 74 Sỹ Quan. H29 ra Nhảy Dù như Điểu, Đức, Chí, Trí, Tánh .... Không nhớ hết nổi. Danh sách Khóa 29 chọn đơn vị ngày 21 tháng 4 năm 1975 261 đứa. Những đứa ham vui đi chơi về trễ đều ra BĐQ. Tổng cộng Khóa 29 là 291 Sỹ Quan.
12. Ly Tran Tony Nguyễn Bạn tường thân- tôi nhớ rất rỏ là Tiểu đoàn trưởng TĐ16/ND là NT Bằng (th/tá) bị hư một mắt. Trong DHH/ND tai thủ đô HTĐ thì các anh em gọi đùa là Bùi đăng và nói ngược lại. tui cũng tra kỷ trong TVBQGVN-TDLS thì không có tên Phạm kim Bằng mà chỉ có NT Nguyễn hửu Bằng K12, NT Hà thúc Bằng K16 (tử trận) và NT Nguyễn lương Bằng K18 với quân hàm Tá trước 75. Bạn cũng có thể tìm đọc 20 năm chiến sự của binh chủng ND- có thể đây là cuốn Gia phả của SĐ/ND/QLVNCH của Vũ trung Tín và Nguyễn hửu Viên viết năm 2010 tai Litle Saigon và tôi nhận 2012 tại ĐH/ND. Thân chúc an vui.
*** Nguyễn văn Mẫn (Mun) nhớ lắm. Xin trả lời câu hỏi của bạn về: Lữ Đoàn 4/ND thành lập ngày 1/12/1974 , LĐT là Tr/tá Lê minh Ngọc K16 gồm 3 tiểu đoàn Tân lập 12,14, và 15. Chiến điểm cuối cùng của LĐ4 ND được tăng phái cho BTL/QĐ3 để án ngữ trục lộ 14 từ ngã ba Tam hiệp vắt qua sông Đồng nai đến Long thành, trong đó có th/uý 9 ngày Thanh Nguyễn. Sau LĐ4/ND thì có thêm 2 tiểu đoàn tân lập nữa là 16 và 17, nhưng rất tiếc 2 đứa con sinh sau đẻ muộn này lại chưa được ghi vào gia phả của SĐ/ND. Chỉ biết Tiểu đoàn trưởng TĐ16/ND là Th/tá Nguyễn lương Bằng K18 đóng tại phi trường TSN trong đó có 2 cùi 9 ngày Quảng trị là Nguyễn Tường K28/ĐĐ161 và cu lý K28/ĐĐ162...và một số quý Cùi 28 & 29 khác. Chuyện AI là người lên chức quan bất đắc dĩ đầu tiên của K28 ??? dưới làn đạn pháo 130 ly vào phi trường đêm 28/4/75 cho đến sáng 30/4/75 tại VĐH Vạn Hạnh.. ND cố gắng. The END.
13. Man Nguyen Van
Có thể tôi ở TĐ16/ND or TĐ17/ND vì tiểu đoàn tôi tập họp các chiến binh từ những đơn vị khác di tản về SG những ngày trước (tôi cùng tiểu đoàn Tân lập với Nguyễn văn Sáng K28 (cháu Đtá Sử). Giữ cầu SG đến 30/4, tan hàng.
14. Phạm văn Nghĩa D29/TĐ5/ND,
TĐT Thiếu Tá Bùi Quyền K16 - Góp phần vào danh sách, Phạm Văn Nghĩa
TĐ5/ND, TĐT Thiếu Tá Bùi Quyền K16. Ngày 25/4/1975-29/5/1975, tử thủ
cầu sông Đồng Nai SG.1 giờ30' rút về Gia Định và một đi không trở về đơn
vị gốc....
No comments:
Post a Comment