Wednesday, September 21, 2022

Trần Công Đài K16 và NHỮNG MẨU CHUYỆN NGẮN (2/3)

TẬP 2/3 (2021- 2022)

LỜI NÓI ĐẦU
( Tôi dùng “ Thay cho lời tựa “ của cuốn hồi-ức CHUYỂN BẾN, làm “ Lời nói đầu “ cho tập “ FB của tôi và những mẩu chuyện ngắn “ này )
Có người hỏi : “ Anh nghĩ thế nào về những hồi-ức mà anh đã đọc qua ? Mà anh đã nghe-biết ? Đã nghe những lời bình-phẩm ? Chỉ nói về tính chân-thực mà thôi “
 

-------------------------- 
 Tôi hỏi lại : “ Khi Trang-tử cùng Huệ-tử ngắm đàn cá tung-tăng, và Trang-tử bảo rằng cá đang vui-thích. Vậy Trang-tử nói thật hay nói đùa ? “

Mấy ai đọc những hồi-ức mà tin rằng đó là do người viết thật lòng viết ra ? Có ai viết hồi-ức mà phủ-nhận tính chân-thực của những chuyện mình kể ?
  Khi trăng soi trên mặt nước, khi ta soi mặt trước gương, thì tuy chỉ là ảnh nhưng ảnh thật. Những suy-tưởng thường đưa đến ảnh ảo.
  Người viết hồi-ức, nếu dùng hồi-ức mình làm mặt nước hay tấm gương cách thuần túy, cũng có khả-năng tạo nên những ảnh thật. Nhưng mấy ai ? Vì chưng mấy ai khi hồi-tưởng và kể lại mà không đắn-đo, nghĩ-suy ? Ở đây không nói đến tưởng-tượng. Dĩ-nhiên không có viển-vông.
Những bài hồi-ức tôi viết này có các dạng trên, nhưng không quá xa. Nếu có ai cho rằng có hư-cấu, thì tôi thú-nhận rằng thật đúng như vậy, nhưng có hạn-chế nhằm hỗ tương cho những chi-tiết chân-thực khác được thuận-lợi hơn.
Tôi tin Trang-tử không đùa khi đưa ra ý-tưởng của mình trong câu chuyện trên. Ông thực-tâm. Tôi cũng cho rằng mình đã thực-tâm khi viết những hồi-ức này.
 -----------------------------
 
 
 25. MÂY TRẮNG VẪN CÒN BAY - HƯƠNG THỜI GIAN THÌ MUÔN THUỞ
Tết Nhâm Dần 2022 đã bước vào ngày thứ ba. Bây giờ thì thế-giới chỉ còn vài nước rầm-rộ đón Tết âm-lịch. Người từ các nước đó với những cơ-duyên nhất-định, đã và đang có mặt trên nhiều địa-điểm của hoàn-cầu, cũng long-trọng với Tết và Xuân Nhâm Dần này.
  Tôi tự hỏi, một ngày nào đó - nếu xét theo mức độ thuyên giảm nồng-độ của Tết cổ truyền, thấy rõ từng thời-kỳ từ trước đến nay - hẳn Tết âm-lịch chỉ còn là kỷ-niệm. Sẽ mất hút.

Ngày mùng 1 Tết Nhâm Dần 2022 nhằm vào Thứ ba, ngày 01 tháng 02 năm 2022 tại Mỹ. Người người vẫn đi làm. Học-sinh vẫn đi học. Vợ tôi vẫn nấu-nướng bình thường, công việc vệ-sinh trong nhà vẫn bình thường. Và tôi vẫn bình thường với ly cà-phê sữa nóng, ly trà nóng, và với giờ giấc thường-lệ, 9 AM mở computer.

  Không cần phải “xóa bỏ” những thứ khi tự chúng “xóa bỏ”. Từng thói quen mà trong vô tình, chúng bị đào-thải. Khi chợt nhìn lại, ta mới biết mình “quên” chúng tự bao giờ.

  Đừng nói những tháng ngày gần nhất đây của 2021, ngay chỉ tháng 1/2022 với New Year dương-lịch, rồi những chuẩn-bị của người Á Đông trong tuần cuối trước khi Tết Nhâm Dần 2022 bắt đầu (vào 3 ngày trước), ta cứ bước đi, và vô tình hay dù cố ý quay lại, thấy gì?

Nhưng sao tôi lại viết “Mây Trắng Vẫn Còn Bay” và “Hương Thời Gian Thì Muôn Thuở”?

 Không riêng tôi nói lên điều này. Hơn 1000 năm trước, Thôi Hiệu nhà Đường, Trung Hoa đã viết lên câu đó “Bạch vân thiên tải không du du”. Chắc-chắn trong suốt thời gian qua, đã “hơn 1 người” cũng lập lại ý đó. Mà có là hằng vạn, hằng triệu người ủng-hộ ý đó, thì đó chưa hẳn phải là 1 công thức, 1 định lý hay định-luật. Dĩ nhiên khoa học, toán học không phải là tiếng nói sau cùng.

  Tôi vào FB từ tháng 3/2020. Mấy năm trước, khi bắt đầu vào tuổi 80, cảm nhận “thiên mệnh” thật sự rõ nét trong tôi. Ai bảo “ngũ thập tri thiên mệnh”? Đoán mò!

  Viết trong FB, tôi tâm-sự với độc-giả khi hầu hết đều kể chuyện xưa. Nhân-vật được nhắc đến “đủ dạng”. Đàn ông, đàn bà, quan to lính nhỏ. Và cho rằng khi viết, tôi có thể cố-gắng hết sức “khách-quan” mà vẫn thường rơi vào “chủ-quan”, thì - người mà tôi nói đến, có được nâng cao hay đạp đổ - họ vẫn là họ. Dù còn sống hay đã mất đi, dù cuộc sống họ thể-hiện có tốt hay xấu, thì “yếu-tính/essence” của họ “bất biến” (Tôi nói về lĩnh vực tín-ngưỡng và thần-học Cơ-đốc).

Hơn một tuần trước, 1 FB friend là TH Nguyen, cho biết tin tro-cốt của NM, bạn học cũ của tôi, mất vào Nov.04, 2021, được đem về cố-hương (Huế, VN). Chuyện về NM thì tôi cũng đã nói trong “Ngàn Năm Mây Trắng Bây Giờ Còn Bay” khi nghe tin cô mất. Và một bài trước đó “Toussaint 1959” khi kể câu chuyện cũ 62 năm trước - trong đó có nhắc đến một cô nữ-sinh 18 tuổi tên NM, cùng lớp với tôi, Đệ Nhất C2 Quốc Học Huế, niên khóa 1959-1960.

Rồi những đàn anh của tôi, “mới đây và trước đó” - theo định-luật đào-thải của thiên nhiên (nature) - mà ra đi, có các anh MVT, NVT, PTM, v.v… Cũng phải kể đến các bạn thân cùng khóa 16 quân-trường (VBQG ĐL) lũ-lượt kéo nhau đi về cõi âm. Nhiều quá, viết e kín cả mấy trang giấy, chỉ riêng tên, họ. Nếu thêm chi-tiết thì chắc là cả cuốn sách cho 142 sĩ quan QLVNCH này. Họ oai hùng quá khiến tôi tự xét mà xấu hổ.

Dương Thận đời Minh, Trung Hoa, thật chủ quan khi viết : “Cổn cổn Trường giang đông thệ thủy. Lãng ba đào tận anh hùng” - Không, sóng Trường giang làm sao cuốn sạch được họ? Cho dù là “sóng thời-gian” cũng làm không được.

  Là “Mây Trắng Vẫn Còn Bay”. Là “Hương Thời-Gian Thì Muôn Thuở”.  Khoảng thời gian 1954-1975 qua đi, nhưng “không mất dấu”. Chiến-trận vẫn “để đời”. Chiến-binh vẫn ngạo-nghễ. Hồn họ vẫn phảng-phất, vẫn còn. Đề-tựa bài tôi viết “Chuông Gọi Hồn Ai” là theo quán-tính khi nhớ đến câu chuyện đã đọc từ Ernest Hemingway.
  Họ bất tử.

Những “bóng hồng” thướt-tha trong các mẩu chuyện tôi kể cũng vậy. Cô nữ-sinh trong “Huế Của Tôi”, nay sống hay chết không thành vấn-đề. Là bà lão cũng đã 82 như tôi. Không mất dấu. “Thủy” trong “Vướng Mắc” vẫn là cô nữ-sinh 16 tuổi, vẫn được nhớ và nhắc đến, trong kỷ-niệm của 1 đại-úy BKD khi dù “vướng mắc” trên các bụi cam trước sân trường học, và được cô và các bạn học giúp gỡ khỏi gai cam.

   Ôi, bóng hồng Đà Lạt những năm đầu thập niên 60 (thế kỷ 20) đã bao lâu rồi, sao cứ nhởn-nhơ? Và các tà áo trắng Huế thập niên 50 của hơn 60 năm trước - màu tím nhạt-phai tự lúc nào? - HM? Q? LC, BC, BV? Và “Màu Áo Xưa Thu Vàng” VL?

   Tại sao lại phải “Người đâu gặp gỡ làm chi. Trăm năm biết có duyên gì hay không?”? Sao ta cứ giam mình với ràng-buộc của “kết-cuộc nhân-sinh”? Chuyện tôi kể, là phác họa suốt khoảng đời mình từ thơ-ấu đến nay. “Tám mươi năm thật đã đủ dài”. Biết bao nhiêu là duyên gặp-gỡ, mà “người tình trăm năm” thì đã cùng tôi đi gần 60 năm. Thế sự biết bao thăng-trầm.

Tôi với đề-tài hôm nay “M Y TRẮNG VẪN CÒN BAY và HƯƠNG THỜI GIAN THÌ MUÔN THUỞ” chỉ là nhắc lại ý-nghĩa đã được trình-bày trong các bài trước “Ngàn Năm Mây Trắng Bây Giờ Còn Bay”, và “Vòng Tròn Sẽ Nối, Vết Đau Sẽ Lành”.

(Stone Mountain GA - Feb.03, 2022 / Ngày mùng 3 Tết Nhâm Dần 2022)
-----------------------------------

26. KẺ ĐỢI TÀU
“Thưa các anh chị - Năm hết Tết đến chúng tôi kính chúc anh chị và gia đình một năm mới an khang, thịnh vượng và tràn đầy sức khỏe. Tấn tài, tấn lộc và mọi sự như ý”
(XXX [kẻ đợi tàu]).

Trên là 1 email do bạn tôi tên XXX gửi ngày Jan.29, 2022. Và tôi cũng đã reply trong ngày :

“Ai là kẻ không đợi tàu? Bạn chúc mừng gia đình chúng tôi thế nào thì tôi xin chúc lại gia đình bạn “y chang”. Mong 20 năm sau chúng ta cùng chúc nhau như vậy, vẫn cùng là kẻ đợi tàu. Thân. DAITRAN””

20 năm sau mà còn chúc Tết nhau, thì người được 102 tuổi, kẻ nhận thứ 104 “Happy Birthday”. Bạn tôi lớn hơn tôi 2 tuổi.
  Khoảng giữa năm trước (2021), bạn tôi gọi phone cho tôi, nói chuyện hơn 1 tiếng đồng hồ. Thì ra bạn ta lo quá. Khám bác sĩ thấy xuống cân kinh khủng, gọi tâm sự với tôi. Tôi bảo “Có gì mà lo. 83 tuổi là thọ rồi”. Tuần sau lại trao đổi : “Đã khám lại. Không sao cả. Hết lo”. Đời người cứ lo lên lo xuống, cũng đã tổn thọ rồi.

PHIẾM-LUẬN:
Kẻ đợi tàu? 3 chữ này cần được phân-biệt cho rõ-ràng:

(1) KẺ. Ta có thể tùy tuổi tác người này mà đoán được ý-định, mục-đích “chuyến đi” này. Nếu là con nít, bản tính trẻ con ham bay nhảy, thích chuyện lạ, thì mỗi độc-giả đều sống qua tuổi “hồng” này. Viết chi thêm dài dòng. Nếu là trung niên, thì công việc đa đoan, lo bươn chải, bôn ba mưu sinh. Ai cũng có kinh-nghiệm. Miễn bàn. Còn việc “giải lao”, lâu lâu đi cruise 1 chuyến để “xả stress”, là chuyện tầm phào, không cần giải thích.
  Nhưng tuổi già lại khác. Chúng ta nên bàn kỹ. Huống gì bạn tôi, người tự xưng là “kẻ đợi tàu”, năm nay 84, chắc có vấn đề. Là điểm chính cần bàn-cãi.

(2) ĐỢI. Phần này phụ thuộc phần trên. Ông già 84 tuổi, còn đợi gì nữa? Phần tiếp theo sẽ giải-tỏa.

(3) TÀU. Bạn tôi đang ở Mỹ. Vật chất dư thừa. Có con cái chăm sóc. Có nhà để ở. Tiền hưu, hay tiền già chắc là đủ. Tuổi già ăn ít, không tốn kém bao nhiêu. Độc-giả tuổi từ 65 trở lên đều được hưởng quyền lợi này. Miễn bàn về phần vật-chất. Vậy “Tàu” không phải tàu chở đồ ăn, “đô la Mỹ”. Mà “tàu” có nghĩa là “chuyến”.

Đó là chuyến tàu “sinh-tử”. Khi khóc oe oe chào đời, là cửa “sinh”, con người nói chung dù muốn dù không, buộc phải đi trên chuyến tàu “suốt” này rồi. Thời-gian tùy mệnh-số mỗi người mà dài hay ngắn. Mà dài ngắn cũng phải chạm đến cánh cửa “tử” sau cùng. Tôi gọi chuyến tàu này là chuyến tàu “sinh-tử”. Nó là 1 đường thẳng sinh-tử, không phải là 1 đường vòng. Tôi ghét nhất những ai văn-vẻ gọi nó là “vòng tử sinh” hay “vòng sinh tử”. Không ai có khả-năng tránh né, tìm đường vòng để đi được. Đừng tự dối, văn vẻ.

Tôi nói với bạn tôi rằng tôi cũng đang là “kẻ đợi tàu”. Là con người, ai cũng là kẻ “đợi tàu”, dù có nghĩ đến hay không. Dù tâm trạng chờ đợi mỗi người thường khác nhau. Có kẻ vô-tư không muốn nghĩ đến. Nhưng còi tàu vẫn vô tình “thét” lên ngoài cửa. Nhất là người mà “bỗng đâu” có tiếng nói bên tai rằng, “đêm nay linh hồn ngươi trả về cho ta”.

(Tấm hình bên, là ảnh chụp tại Sài Gòn vào giữa thập niên 80. Từ trái qua phải, chị Như Tường, qua đời khoảng giữa 1995-2000 - Huỳnh Văn Hiến, qua đời năm 1995 - Nguyễn Phúc Vĩnh Đương, bạn cùng lớp các năm 1952-1954 tại trường Pellerin, Huế, hiện sống ở Nam Ca-li [là người đã gửi email cho tôi ngay đầu bài viết này] - Huỳnh Văn Hiếu, hiện ở San Jose, CA)

Tôi đã quen thân gia đình bà cụ Trí, thân mẫu của Hiếu và Hiến từ 1958 (bà là vợ kế của ông cụ Trí, sau khi bà chính qua đời). Chị Tường là con bà chính - còn độc thân bấy giờ, và ở chung với 3 em cùng cha khác mẹ. Với chị Như Tường, tôi luôn liên lạc từ 1958 (khi tôi quen biết gia đình này) cho đến những năm cuối thập niên 80, trước khi tôi qua Mỹ.

Bài viết này, trước mắt chỉ phản ảnh 2 tiếng nói : của tôi và của bạn tôi. Tôi không biết người khác có làm giống tôi không. Đã chuẩn-bị xong mọi thứ. Bạn tôi tự xưng “kẻ đợi tàu”, ắt đã chuẩn-bị phần mình. Đã xong cuộc chơi.

  Tôi là một tín đồ Cơ-đốc, nặng về phần tâm-linh. Tôi đã giao tôi cho Đấng tôi tôn thờ. Nguyện Ngài “khiến tôi an-nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi. Dẫn tôi đến mé nước bình-tịnh… Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết. Tôi sẽ chẳng sợ tai-họa nào, vì Chúa ở cùng tôi … Quả thật, trọn đời tôi, phước hạnh và sự thương-xót sẽ theo tôi. Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài” (Thi Thiên 23 : 2, 4, 6)

(Stone Mountain GA - Feb.12, 2022)
--------------------------------------

27. MỌI SỰ ĐỀU TRỞ NÊN MỚI
Năm mới dương-lịch 2022 đã qua 27 ngày rồi. Còn 5 ngày nữa thì vào tháng 2/2022. Dù vậy, khi tôi gỏ phiếm đánh lên những dòng chữ này, thì các bài nhạc Xuân & Tết lại hết sức nhộn-nhịp. Lại nữa, các chợ Tết đã bắt đầu dựng lên, market (Á đông nói chung, VN nói riêng) bày-biện “quá trời” hàng Tết.
  Là Tết Nhâm Dần. Không nói đến người dân trong nước, người Việt Hải-ngoại vẫn rầm-rộ đón Tết âm-lịch.

Ảnh sẽ được chụp nhiều, sẽ được đưa lên khắp “Trang”, nhất là FB. Bài viết cũng thế. Nghĩa là chuyện cũ được “xào nấu” lại và gắn thêm cái nhãn “Tân niên”. Tôi mới tự hỏi, sao mỗi năm “tây”, ví dụ 2021, 1945, 1954, 1968, … đã qua đi là mất hút. Nếu được nhắc đến, thì chỉ là những biến-cố, của dòng lịch-sử, của cá-nhân hay tập-thể đã xảy ra vào từng năm đó, hoặc 1 loạt (thì người ta viết, ví dụ : 1945-1954, …).

Nhưng năm “ta”, hay năm theo âm-lịch lại khác nha! Vài ngày nữa là Tết Nhâm Dần. 60 năm trước cũng đã có Tết Nhâm Dần. 120 năm trước cũng đã có Tết Nhâm Dần. Nên người ta muốn có sự phân-biệt, mới viết thêm : Nhâm Dần 1962, Nhâm Dần 1902. Và nay là Nhâm Dần 2022.

Dương-lịch cứ thế đi tới.  m-lịch thì “hoài cổ”! Ao-ước âm-lịch đừng dựa-dẫm dương lịch để có thể “hãnh-diện” mà “tự-cường”. Nhưng làm sao đây?
  Vậy bà con VN chúng ta cứ vui với năm mới “2022”, đừng có thêm “cọp, mèo, chó, dê” gì thêm. Cứ mỗi 10 năm lại có Giáp, hay Ất, hay Bính .. - rồi cứ mỗi 12 năm thì “rồng, ngựa, rắn, chuột” v.v… lại trở về. Buồn cười! Tuổi mỗi năm thì mỗi tăng, người cứ già đi mà “rồng, rắn” lại cứ “ỏm tỏi” quay lại.

Đã mới thì cho mới luôn. Tôi là 1 tín-đồ Tin lành. II Cô-rinh-tô viết : “ Vậy nếu ai ở trong Đấng Christ, thì này là người dựng nên mới ; những sự cũ đã qua đi, này mọi sự đều trở nên mới “.

Muốn mình đổi mới không dễ. Thời-gian cũng như không-gian thuộc về vũ-trụ, đều do Thượng-Đế sáng-tạo. Con người là “vô-năng” khi đứng trước chúng. Đừng tưởng khoa học, văn-minh con người hiện nay đã đốt đi khoảng cách với tốc độ mới nhất, nhanh nhất của phi-thuyền là 700.000 km/giờ, mà tạm “vỗ ngực” khoe-khoang. Còn lâu mới đạt được tốc-độ của ánh-sáng là 300.000 km/giây. Cố gắng lắm, phi-thuyền (không người lái) mới qua giáp mí của hệ-thống mặt trời, và phải còn luẩn-quẩn khá lâu nữa trong ga-lắc-xi Ngân-hà.

Thiên-hà (galaxi) mà nhà thiên-văn có thể quan-sát được là IC1101. (Độc-giả hãy lên online sẽ biết), thì thật kinh-khủng với độ lớn của nó và khoảng cách thật xa đối với trái đất (còn nhiều thứ lớn hơn, xa hơn mà chúng ta chưa phát-hiện).

Đưa ra ít chuyện khoa-học trên chỉ để minh-chứng sự “vô năng” của con người trước Thượng-Đế. Đi sâu vào Thần-học, rồi để 3 năm vừa dịch vừa soạn thảo, tôi hoàn-tất 3 sách (hình chụp kèm theo), tổng cọng chỉ khoảng 1500 trang giấy khổ lớn (8.5 X 11 inch). Điều cần biết còn dài dằng-dặc, mà bí-mật của vũ-trụ còn mênh-mông. Tôi chỉ biết tự an-ủi “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).
  Mỗi một ngày tiếp theo, tôi chỉ biết ca-ngợi Thượng-Đế rằng “Này là một ngày mới mà Chúa làm nên”. Là để cảm-tạ về sự “còn sống” của mình - “còn sống” ở đây nằm trong ý-nghĩa “thần-học” là : vì JC hằng sống mà tôi còn sống. Rồi cùng với ý-nghĩa đó, thì con người tôi cũng được “đổi mới”.

Đó là ý của bài viết hôm nay (Stone Mountain GA - Jan.27, 2022)

Ghi nhận thêm : Trả lời 1 FB Friend, tôi viết về lý do có 3 sách (hình chụp) trên.

“Kính bạn - Là chuyện đến từ ơn Chúa. Hoàn-tất 3 sách khoảng 6 năm trước, đem về VN in (giá in rất rẻ so với in tại Mỹ). Chỉ in không quá 15 bộ (mỗi bộ gồm : Chú-giải Rô-ma, Chú-giải I Cô-rinh-tô, Chú-giải II Cô-rinh-tô). Mỗi cuốn khá nặng (gần 1 kg), nên biếu tặng các hội-thánh tại VN (11 bộ), chỉ đem về Mỹ 4 bộ. Biếu tặng hết. “Nhà vườn ăn cau khô”, nên 3 ngày trước, tôi print tại nhà, tự đóng lấy để dùng.
  Tôi nói rằng do “ơn Chúa” là vì lý do sau. 9 năm trước, nhân về VN, đến thăm và ở lại tại 1 nhà thờ công-giáo tại Lăng Cô, Thừa Thiên (dưới sự chăm sóc của 1 linh-mục tên NĐT - là em của 1 người bạn thân). Trò chuyện, trao-đổi về thần-học, linh-mục T. cho biết ông ao-ước đọc những sách giải-kinh, và 3 sách mà ông cần tham-khảo là Thư Phao-lô viết cho tín-đồ Rô-ma, Thư viết cho I Cô-rinh, Thư viết cho II Cô-rinh. Các Tòa Tổng Giám Mục Công-giáo đều có thư-viện. Các linh mục có thể đến đọc tại chỗ để tham-khảo, nhưng không được mượn đem về nhà.
  Tôi nói với linh-mục T. rằng tôi có thể dịch từ tài liệu Anh ngữ, với thời gian ngắn.
Nói thì nói vậy, việc không đơn-giản. Tôi phải dành ra 3 năm để dịch và soạn 3 sách trên. Chính yếu từ 2 tác-giả, khoảng trên 10% lấy từ những tác-giả khác.
  Còn nhiều khó khăn khác, như việc dùng Kinh Thánh tiếng Việt. Khoảng 10% dùng bản dịch phổ thông (Phan Khôi), còn lại, tôi dịch thẳng từ bản tiếng Anh của tác-giả.
  Mất 3 năm mới hoàn-tất. Dĩ nhiên “khách hàng” đầu tiên là linh-mục T. Ông rất vui.
--------------------------------------------------

28. TÌNH
Sáng nay nhân đến Gwinnett (tên County tôi ở) Tag Office có chút chuyện, xong việc và trên đường về thăm bạn.
  Thấy xúc-động. Già trên 80 phải cẩn-thận, tránh xúc-động mạnh, dễ gây stroke!
  Gần 2 năm nay không gặp bạn, dù đã gọi phone nhiều lần, nhưng không ai “tiếp” phone. Suốt thời-gian trên, trong cao-điểm của COVID-19 nên tránh gặp nhau thì cũng đúng, dù tôi ráng qua nhiều cách tiếp-xúc vẫn vô-hiệu. Gọi phone không bắt thì đến thăm trực-tiếp. Hôm nay thì “dịch bệnh” nói chung không còn được nhắc đến.
  Đứng ngoài cửa nhà bạn, vợ bạn đã hé cửa bảo rằng “anh còn bệnh, không thể tiếp”.

“Đa tình khước tự tổng vô tình
“Duy giác tôn tiền tiếu bất thành
“Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt
“Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh”” (Đỗ Mục, đời Đường, Trung Hoa)

Đây là “cuộc chia tay”. Tình bạn hay tình yêu “nam nữ”? Tôi không đi sâu vào tìm hiểu về Đỗ Mục.

Có lẽ VN vì truyền thống đất nước từng bị ngoại xâm đánh chiếm, thống-trị, đô-hộ nên “tình yêu nước” thấm-thía trên mỗi người dân.
  Lòng yêu nước vốn tự lúc nào tiềm-tàng, đã trở thành “nhược điểm” và dễ lợi-dụng, nắm bắt trong bàn tay những nhân-vật, đảng phái chính-trị. Ngay chỉ vào lứa tuổi 8 hay 9, mà tôi và các bạn cùng lứa thấy lòng sục-sôi khi “người lớn” cố tình thêu dệt sự tàn ác của “giặc Tây” (Pháp). Thế là những bài hát “Nhớ chiến khu” (Còn đâu trên chiến khu trong rừng chiều. Bên đèo lắng suối reo ngàn thông réo … của Đỗ Nhuận), “Người lính bên tê” (Một chiều biên khu ngồi ôm cây súng dài. Chợt nghe tiếng chim cười lòng tôi thêm nhớ ai … của Phạm Duy) đã thay thế những bài hát quê êm đềm “Chiều quê” (Quê nhà tôi chiều khi nắng êm đềm … của Hoàng Quý) hay “Tiếng chim gọi đàn” hay những bài hùng ca : Bóng cờ lau, Bạch Đằng giang, Chi Lăng …

Vài ngày trước đây thôi, đọc các trang FB, tin-tức nói về cuộc chiến tại Ukraine, thấy post lên nữ phi công Ukraine tử thương. “Lòng yêu nước” giống nhau. “Tình yêu nước” giống nhau. Lòng già này lại “sôi sục”. Tôi viết comment “Hãy cho tôi khóc bằng mắt người dân Ukrainian - khóc thương nữ thiên thần “chiến sĩ” Natasha Perakov” (Mượn ý của Thanh Tâm Tuyền “Hãy cho tôi khóc bằng mắt em, những cuộc tình duyên Budapest”).
  Hình ảnh vợ Tổng thống Ukraine tay cầm súng khiến tôi nhìn lại thanh-niên VN hiện nay, và tôi viết comment “Thanh niên VN hãy nhìn!”.

Có lẽ hơn 70 năm trước, tuổi trẻ bọn tôi không có gì như bây giờ. Phương tiện di chuyển nghèo nàn - ngay cả xe đạp cũng không có, chỉ mỗi đôi chân. Nói chuyện, dù có réo gọi, thì ngoài 50 mét âm thanh đã loảng trong không-khí. Thì nói làm gì iphone đổi mới hàng năm. Nói làm chi TV đủ loại tân tiến. Thanh niên VN trong và ngoài nước nói chung hiện nay “dư thừa” mọi phương-tiện, trang-bị cho ăn-uống, giải-trí …
  Chắc “bọn tôi” thiếu những thứ nói trên vào gần 1 thế kỷ trước, nên nghèo-nàn chỉ có mỗi “tình yêu nước”. Cứ thế, “bệnh yêu nước” vốn đã nhiễm vào những thập-niên 20, 30 trên những Nguyễn Thái Học, … (Kìa Đức Chính, Ký Con và Thái Học. Cùng chịu rơi đầu vì tổ-quốc …), tiếp-tục, bên ngoài là câu trả lời qua dòng máu đổ, mà bên trong là “hận nước điêu linh” qua 3 thập niên 1945-1975.

Cuộc chiến không cân xứng qua 2 thập-niên 1955-1975, Miền Nam VN khốn khổ. Địch với “các nước anh em” của họ không ngừng nghỉ tiếp sinh lực. Đồng minh của ta “đâm sau lưng”.

“Đa tình” trong chủ đề “TÌNH” này, không chỉ với “Tình yêu nước”. Họ - là lứa bọn tôi - từ thập niên 40 đến nay, người còn sống thì đã đang đi vào thập-niên thứ 8 (thập-niên 20 của thế-kỷ 21 - tính từ 2020), còn người đã “rơi rụng” thì vô chừng vào mỗi năm trong suốt 80 năm đó.
  “Tình bạn” rất đa-dạng. Tình thuở ấu thời, ta thường nói “bạn nối khố”, chắc cũng trong ý này. “Tình đưa ra” nhiều khi mất tiêu luôn. Mà khi ta nhận lấy, rồi để quên chỗ nào tìm không thấy. Thế nhưng một lúc nào đó, vài mươi năm sau, gặp lại thì có lúc nhìn cảnh ngộ nhau mà xót-xa, ái-ngại, và có lúc thì “hoạt khởi” mà “nồng nàn” ra phết! Nói chung về “tình bạn” thì rất nhiêu-khê.

Có 1 lần tôi bàn về “tri âm, tri kỷ”. Và tôi cũng đã nói về 1 đàn anh khi nói về quân trường mình đã thụ-huấn. Chưa lần nào gặp mặt, chỉ trao đổi qua điện-thoại, email, ý kiến trên 1 diễn đàn nọ, nhưng tôi đã xem người này là “bạn tri âm” của tôi.
  Trong thời-gian đi học, mài đũng quần trên ghế nhà trường, từ lớp thấp cho hết trung học, ta có nhiều bạn học. Cũng là “tình bạn”. Tình bạn cũng từ “sơ” đến “thân”. Nhưng “đường ai nấy đi”, mà khi gặp lại nhau, nếu thân-tình, thì ân-cần thăm hỏi, quan-ngại cho nhau, chắc như Đỗ Mục (với bài thơ trên) “.. Duy giác tôn tiền tiếu bất thành”. Nếu uống rượu được, thì sau cùng, chén rượu là “ly bôi”, là rượu tiễn-biệt, hãy để cho ngọn nến “nhỏ lệ” đến bình minh.
  Một bài viết trước đây của tôi “Toussaint 1959”, chỉ nói về các bạn nam + nữ cùng lớp Đệ Nhất C2 Quốc Học Huế (1959-1960). Cùng nhau chỉ mấy tháng học, rồi tôi giả-từ “bút nghiên” mà vào “quân ngũ”. Cùng nhau chỉ họp mặt qua đêm (chỉ 1 đêm). Mà rồi hơn 60 năm sau tôi còn nhắc lại tên các bạn này. Và chỉ là tin bất hạnh đến với NM, 1 bạn nữ-sinh cùng lớp, cùng đêm họp mặt đó - mà kể từ cuối năm 1959 đó, tôi đã xa bạn, không lần gặp lại - thế mà lòng vẫn thổn-thức.

Và “tình bạn đồng môn”, rồi “tình chiến hữu”. Hai từ ngữ “thân” và “sơ” không nằm trong category này. Chỉ hơn 3 năm cùng khóa trong quân trường, rồi mãi sau này không còn gặp lại nhau, thì không thể gọi là “thân” được. Mà cũng không phải là “sơ”. Chợt nghe tên bạn, chợt nghe những tin-tức về bạn, biết bạn thăng-trầm, và hơn hết, nghe bạn ra đi vĩnh-viễn, ta thấy lòng mình “nhói đau”. Rồi những ngày gần đây, cáo phó đăng tên : “Chuẩn-úy X…”, “Đại-úy Y …”. Chưa hề quen biết. Trước đây chưa hề nghe tên. Lòng vẫn u-hoài, ngậm-ngùi. Họ là những chiến-hữu. Là “tình chiến hữu”.

Lòng tôi chưa đủ “nhân ái” để phải đau-thương trước mỗi chết-chóc của tha-nhân. Thứ “tình yêu thương” cao-vời đó thuộc về tín-ngưỡng (là agapé) không tiện lạm bàn ở đây. Dù rằng có phiếm luận so sánh thứ love đó là 1 loại “platonic love”, có kẻ còn gọi là “rational love”. Plato (Platon) nếu còn sống đến nay, chắc giận dữ mà trách-chửi kẻ đã dùng tên ông ghép vào thứ tình yêu thương “lý tưởng” đó. Con người “xác thịt” không thể có loại tình yêu thương này.

Moving về Georgia cuối 1998, thì gần 2 năm sau, tôi thăm + tiễn 1 bạn đồng khóa. Là HVH, Tiểu đoàn trưởng TĐ 35 BĐQ nổi danh 1 thời (1968). Nghĩa tử là nghĩa tận, huống gì giữa chúng tôi có mấy thứ tình kết-hợp : tình đồng môn, đồng khóa, tình chiến hữu. Cũng thế đối với 1 bạn đồng khóa khác là HBV. 12 năm trước, bạn mất. Rồi tháng 9 năm ngoái (2021), bạn tôi là LHT ra đi.

23 năm nay kể từ khi về đây, hỏi thăm, tiếp-xúc bạn cũ. Cứ cách mấy năm, bạn ở đây + bạn các nơi “lơi” dần. Với TOX, không những đồng môn, đồng khóa, còn cùng đại đội SVSQ (1960). Thỉnh thoảng gặp nhau. Đã từng cười khóc với vận nước nổi trôi. Từng kể nhau nghe những tháng ngày “tù đày” mỗi người, của các bạn khác. Rồi tha hương ngộ cố tri.
  Khoảng 8 năm trước, bạn tôi chẩn bệnh gặp 1 loại ung thư, liên quan máu và tủy sống. Vẫn thường đến thăm, điều gì an-ủi được thì an-ủi. Điều gì khuyên được thì khuyên. Dịch bệnh lan tràn suốt 2020, qua cả 2021, không cách gì thăm bạn được. Gọi phone thăm hỏi cũng bị từ chối. Nghe tin bạn mỗi tệ hơn về bệnh tình.

Từ trước đến nay, từ ấu thơ đến sau này, tôi đã từng có những gánh nặng. Trước 1945, khi chạy loạn tránh bom từ nhà đến núi Nhồi (Thanh Hóa) khoảng 6 km, vì còn nhỏ nên chỉ chạy theo bà ngoại, mẹ, và chị. Không “tay xách nách mang”, vai “không” mang gì cả. Khoảng 10 tuổi đã biết gánh nước từ giếng lên nhà trên đồi Quảng Tế, xa khoảng 200 mét. Đời lính, những năm đầu với cấp chức thấp, nên hành trang cũng không ít hơn 1 ba-lô chất đầy. Suốt 9 năm “nghìn dặm lưu đày”, thì chắc phải có “gánh” nặng hơn. Vác cây, bương nứa - gánh nước, gánh phân trong “vũ khúc lên đồi” tại Vĩnh Quang A …
  Gánh đó có nặng mấy, chỉ là giai-đoạn và tạm thời, đến rồi đi, có rồi quẳng bỏ.

Chỉ là “gánh tình” cứ triền miên, dai dẳng mãi bám lấy vai ta. Buồn vì không được thân nhân bạn cho phép thăm bạn. Chính là hiểu rằng chữ “chia tay” thông dụng hơn 2 tiếng “hội ngộ”. Ai có phần nấy, nhưng sao vai ta cứ mãi nặng?

(Stone Mountain GA - Feb.28, 2022)
----------------------------------------------
 
29. TÌM KHÔNG THẤY
Tôi đã viết 1 bài với tựa đề “ĐÔI NGÔ. Bài “TÌM KHÔNG THẤY” này có ít nét tương-tự. “Đôi Ngã” có nỗi buồn của nó khi vĩnh-viễn hai con đường không gặp nhau lại, mà ngay cả khi chúng - không hiểu “hữu hay vô duyên” - gặp lại, kề cạnh nhau, mọi cố-gắng chỉ thêm ngậm-ngùi.

Trở về Huế, không lâu sau khi xa Huế hơn 10 năm (cuối 1959 và trở lại 1970), đến thăm chốn cũ. Đồi Quảng Tế vẫn thế, nhà máy nước Vạn-Niên (có thật là vạn niên?) vẫn thế. Từ-đường họ Trần vẫn thế, chỉ chú thím họ của tôi (người coi-sóc từ-đường) già hơn và có vấn-đề : chú tôi chỉ nằm úp, bất động, lưng lở-loét - còn thím tôi, gần 90, ngây thơ như trẻ con, khi tôi đưa tờ bạc 500$VN (1970), thì người hàng xóm có mặt, cười bảo : “bà ấy đang tìm chỗ giấu tiền, rồi nửa tiếng sau, không biết mình cất ở đâu”.

Còn lại trong tôi, là tiếng gõ mõ, tiếng chuông xen, và tiếng tụng kinh. Chú tôi ngàn ngày như một, cũng giờ đó, cũng chỗ ngồi đó, cũng nén nhang cháy, và chuông, mõ.
  Rồi đâu đây, âm thanh của “tiếng thời gian” như vang lên. 1950? 1954? Tiếng ấm nước reo sôi : bà nội tôi đã ngồi bên bếp tự bao giờ, nấu nước pha trà. Chỉ 1 thoáng thôi. Mọi thứ tan biến. Tôi tìm không thấy.

Hai năm sau có dịp trở lại từ-đường họ Trần, chỉ còn là vắng vẻ. Chú họ tôi đã mất sau ít tháng lần trước tôi đến thăm (1970). Thím họ tôi vẫn tiếp-tục chìm-đắm trong cơn bệnh “mất trí nhớ”. Người em họ tôi (con của chú thím tôi) ở căn nhà sát từ-đường, vừa thay cha coi-sóc nhà thờ, vừa chăm-nom mẹ. Bốn mươi mấy năm sau (2017) kể từ lần sau cùng về Huế (1972), tôi thuê khách-sạn Nữ Hoàng 2 (sát cầu chợ Dinh). Có phải đây “Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh” không?

Nhớ giữa tháng 2/1961 (là 3 ngày Tết âm lịch), tôi và 2 bạn : Lê Hữu Cương, Lê Xuân Quang đến Nam Phổ (nhà của Quang) thăm mẹ của Quang. Theo bờ ruộng, qua những thửa ruộng khô, trơ gốc rạ, là thôn xóm với những hàng cau vươn cao. Bà chỉ hơn 50. Bà chỉ có 2 con, chồng mất sớm. Con gái đầu đã lớn, làm tại Ty Công Chánh Đà Lạt, còn độc thân dù tuổi gần 30. Con trai là Quang, mới 22 tuổi, cùng khóa 16 VBQGĐL với chúng tôi.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” (Hàn Mặc Tử). Chúng tôi 4 người “kết bạn” từ cuối 1959. Tôn Thất Thuận, Quang, Cương và tôi. Thứ tự miên viễn ra đi là Thuận (1970), Quang (1975), Cương (2004). Nay còn mình tôi.

  Nam Phổ của 56 năm trước (1961-2017) là đây sao? Trống-trải ngày xưa nhưng “ấm áp”, thì nay chen-chúc với “lạnh-lùng”! Chỉ còn là kỷ-niệm! Tôi tìm không thấy.
  Từ chợ Mai, đi theo cầu chợ Dinh, tôi đi bộ qua Nam Phổ. Vào địa phận Vỹ Dạ, tôi hỏi thăm đường vào nhà thờ công-giáo Cồn Hến. Gặp linh mục Tuân - em 1 bạn thân - và được giải-thích tường-tận tên địa danh, tên đường xưa và nay. Tiếp-tục qua “Đập Đá” (tên cũ). Qua khỏi đường Nguyễn Công Trứ (tên cũ không đổi). Một chuyện tình vớ-vẩn với NH (1970) …
  Thêm dăm bước, theo thói quen nhìn bên trái. Tìm không thấy. Mấy năm cuối thập niên 50 (1957-1959), tôi thường ghé “tiệm tạp hóa + sách”, cũng là nhà của Thầy Đinh Quy. Thầy là Hiệu trưởng Quốc Học Huế từ niên khóa 1958-1959. Bà Đinh Qui luôn có mặt tại “tiệm sách” nhỏ này. Nếu tôi không quá bận dạy kèm nhiều chỗ vào niên khóa 1958-1959, thì tôi hẳn đã nhận dạy kèm các con của Thầy Quy.
  Qua khỏi chân cầu Trường Tiền, qua khỏi Morin. Bà Yến - chủ khu vực này - là chị họ tôi. Cái chết của ông Yến cũng làm buồn lòng tôi một dạo. “Bất công” thì chế độ nào tránh khỏi? Rẽ trái, trong tâm-tư thì hiện lên những Bưu điện, Thông tin, Trường Tiểu học Pháp, Trung học Pháp. Rồi Chaffanjon. Và (nếu tôi không lầm) con đường Lê Đình Dương (trùng tên với thân phụ của bạn tôi - Lê Đình Cự [có cô em là nhạc sĩ Lê Tín Hương]). Đường Lê Đình Dương này chạy phía sau Bệnh Viện Huế, Trường Đồng Khánh, và Quốc Học, rồi xuyên ngang đường Khải Định (cũ) mà thẳng đến Bến Ngự.

Dĩ nhiên hiện-trạng làm sao giống như hình ảnh hiện lên trong tâm tư? Và dĩ nhiên tôi cũng không tìm thấy. Gần 60 năm, làm sao Vương Bột tìm ra “con vua” đã từng ngồi ở “Đằng Vân Các”?

“Đằng vương cao các lâm giang chữ
“Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
“Họa đống triêu phi Nam-phố vân
“Châu liêm mộ quyển Tây-sơn vũ
“Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
“Vật hoán tinh di kỷ độ thu
“Các trung đế tử kim hà tại
“Hạm ngoại Trường-giang không tự lưu “” (Vương Bột - Đằng vương các)

Mọi thứ đổi thay. Đi về phía An Cựu. Cầu An Cựu không xa, hiện ra trước mắt. Vậy chính là đây, bên trái đường. Chuyện của gần 60 năm trước, tôi quen LC, khi cùng thi Tú tài 1. Theo LC về nhà cô - là đây, cũng là lần đầu tiên - mới biết cô là con gái lớn của Thầy dạy tiếng Việt, khi tôi học Trung học Pháp năm 1954-1955. Là thầy Tạ Đình Cung. Thầy mất đã hơn 1 năm. Hai năm 1958, 1959 tôi thường đến thăm bà Cung - bà mới khoảng 50 mà tóc bạc nhiều. LC có 2 em : BC và BV. BV mới khoảng 15, hay lăng xăng tiếp chuyện tôi khi LC vắng nhà.
  LC là hoa khôi Đồng Khánh khi học Đệ Tam, niên-khóa 1955-1956. Hỏng Tú tài 1 năm sau, rồi lấy chồng. Theo chồng về Dạ Lê, Hương Thủy. Chỉ mấy tháng sau, ly thân. Về nhà, kiếm việc làm giúp mẹ, chăm sóc 2 em.

5 năm sau gặp lại LC. Cô mới hoàn tất hồ sơ ly dị chồng. Chồng cũ của cô lại cùng làm việc với tôi, LBH. Anh ta là thông dịch viên. LC đã là nữ Hộ sinh Quốc-gia, làm việc tại Bệnh viện Quảng Ngãi. Cô đỡ đẻ cho đứa con trai đầu của tôi (1964). Bấy giờ cô mới kể chi tiết chuyện riêng của cô. Mẹ của cô cũng mới mất năm ngoái. Hai em gái cô đều lấy chồng. Cô vẫn sống độc thân sau khi ly thân, rồi nay ly dị chồng.
  Thật tang thương. BC và BV học giỏi, đều xinh đẹp, nhất là BV. Tìm không thấy, cô bé nhí-nhảnh ngày xưa! Lần gặp LC đó cũng là lần chót. Biết tin tức về mẹ và 2 em của LC lần đó cũng là lần sau cùng. Đến nay cũng đã 58 năm.

Tần-ngần trước khu-vực phỏng đoán là chốn xưa, mà hiện-trạng dĩ nhiên làm sao còn lưu chút gì dấu cũ. Chỉ là tầng cao tầng thấp, mịt mù. Rõ ràng việc “TÌM KHÔNG THẤY” là rất thật. Mỏi chân, tôi gọi 1 chiếc xe “ôm”. Vòng về Phủ Cam. Kỷ niệm nhiều của niên khóa 1958-1959. Nhà thờ Phủ Cam, nhà chung công-giáo, cầu Phủ Cam, và dòng sông. Tôi không nhớ tên các con đường ngày xưa, mà nay, đang đứng bên này cầu Phủ Cam. Con đường mang tên Nguyễn Trường Tộ này không rõ có liên quan gì con đường cùng tên nằm giữa 2 ngôi trường Quốc Học và Đồng Khánh. Tôi đang nhớ mình từ dãy nhà bên này đường, đối diện với khu Nhà Chung công-giáo. Cứ sáng chiều nhìn ngắm hàng loạt áo trắng, đi bộ có, đi xe đạp có, giao-thoa giữa Quốc Học-Đồng Khánh và Phủ Cam.

Bến Ngự. Theo đường Phan Bội Châu, về Bến Ngự. Hình như cả 2 con đường 2 bên sông vẫn như cũ :  bên này là Phan Bội Châu, bên kia là Phan Chu Trinh. Đi qua khuôn viên của người anh họ, Ưng Trình. Các con ông, nhỏ nhất (con bà lớn) là cô Đ. Cũng hơn tôi 10 tuổi. Nhớ những năm 1949-1950, khi cô đến thăm cô ruột tôi, hay “xoa đầu” tôi mà cười “chú cháu mình cùng tên, tức cười hỉ!”. Bửu Tôn, con vợ kế của ông Ưng Trình, cũng bằng tuổi tôi - hình như cũng học ngang tôi.
  Đến thăm Tôn Thất Kỳ. Bạn khá thân. Lần trước (2010) khi về VN, cũng đã đến thăm bạn. Ôn chuyện cũ. Kỳ từng giúp tôi kiếm chỗ dạy kèm (1957), các cháu gái của Kỳ.
  Lần về thăm này, tôi vô tình hỏi thăm ít chuyện cũ về “Biến động miền Trung 1966”. Kỳ có vẻ không bằng lòng (Kỳ vốn là lãnh tụ sinh-viên y-khoa tranh đấu). Kỳ lấy cớ bận, tiễn tôi về. Một tình bạn cũ mặc áo ra đi. Thế thì “ĐÔI NGÔ và “TÌM KHÔNG THẤY” là đây sao?

Từ Bến Ngự, dọc theo đường Trần Thúc Nhẫn ra gặp Khải Định (cũ). Ghé 1 quán giải khát bên phải đường. Dù cảnh vật hoàn toàn đổi thay, tôi vẫn ước tính được khu vực đối diện (bên kia đường). Chắc chắn đó là khuôn viên của Ưng Hanh (em cụ Ưng Trình) - sát là nhà và vườn của cô ruột tôi và những con của cô là các biểu-huynh Ưng Thận, Ưng Hồ, Ưng Hội và 2 biểu-tỷ. Tiếp là nhà, vườn của Ưng Long (em của Ưng Trình). Ngôi nhà mang số 10 Trần Thúc Nhẫn của cô tôi là kỷ niệm 2 năm 1949, 1950 mà tôi sống với cô, trước khi tôi lên Trung-học.

Lướt qua ngôi trường cũ, Pellerin. Thay chủ, thay tên nên tôi “Tìm Không Thấy”. 5 năm học ở đây, biết bao là kỷ niệm thiếu thời. Qua cầu ga, ga thấy lạ. Dọc Phan Chu Trinh về cầu “ván”, rẽ phải lên Từ Đàm. Dốc lên dốc xuống, qua khỏi chùa Từ Đàm, nhớ đường rẽ về chùa Tường Vân. Lại nhớ Lê Hữu Bôi, nhớ đến tấm tình vu-vơ với cô nữ sinh tóc xõa ngang lưng, “áo thắt hay eo đẹp”, là bạn hàng xóm của Bôi.
  Rồi Nam Giao và đàn Nam Giao. Trước đàn Nam Giao là con đường. Trái về phía núi Ngự Bình, phải dăm bước lại tẻ nhánh : - trái về cầu Lim, dòng Thiên An, lăng Châu Ê (Khải Định), đặc biệt đi qua làng Châu Chữ : mộ địa các đời của họ Trần từ mấy trăm năm qua ; - phải, dốc xuống đầu tiên là “dốc thợ rèn”, tiệm thợ rèn bên trái, ngay khi khỏi dốc xuống, bên phải đường là đồi Quảng Tế.
  Đồi Quảng Tế cứ dọc con đường, cách đàn Nam Giao khoảng 700 mét là từ-đường họ Trần. Đi thêm khoảng 1 km là “độn án”, hai bên đường là các lăng mộ. Chùa Từ Hiếu nằm trên con đường đất (ngày xưa) bên phải. Đi thêm khoảng 3 km là lăng Tự Đức. Mới tính đến đây thôi, thì bao nhiêu địa danh ngang dọc như muốn chen nhau hiện lên trong tâm khảm…
  Chỉ dừng trước nhà thờ họ, đã là nhà cửa san sát, bụi bặm. Chốn cũ đã không còn là quen thuộc. “Đôi Ngã” mà “Tìm Không Thấy”, hay gặp lại “đâu lưng” mà xa cách muôn trùng”?

Lòng còn khắc khoải. 2020 vào FB tìm dư âm ngày cũ. “Bất phục hồi” nên vẫn là tìm không thấy. Gửi tặng độc giả 4 câu thơ đầu và 8 câu chót của 32 đoạn thơ (128 câu) bài “TA VỀ” của Tô Thùy Yên (Đinh Thành Tiên) :

“Ta về một bóng trên đường lớn
“Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
“Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
“Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay …” (1-4)

“Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa
“Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
“Ai đó trong hồn ta thổn thức?
“Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi

“Ta về như hạc vàng thương nhớ
“Một thuở trần gian bay lướt qua
“Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
“Đành không trải hết được lòng ta “” (120-128)

Tô Thùy Yên, 10 năm than thở với “Ta Về”. Hơn mấy chục năm của tôi, thì làm sao nói hết? “Mấy chục năm rồi ta rong chơi. Đường về đã mỏi cánh chim trời. “Tìm Không Thấy” không vì “Đôi Ngã”. Thời gian ơi sao mãi cuốn trôi?””

(Stone Mountain GA - Jul.31, 2021 edited on March 8, 2022)
----------------------------------------------------

30. CUỒN CUỘN ĐẾN, RỒI CUỒN CUỘN ĐI
Truyện “THIỀU QUANG MẠN” của “Đông Thiên Đích Liễu Diệp” chưa viết xong hoặc “nhóm dịch ra tiếng Việt” chưa dịch hết, thì tôi không rõ, nhưng đọc mấy câu của tác giả nói về thời tiết 4 mùa biến đổi (nói riêng) và thời gian lướt qua (nói chung), cũng khiến ta lắm suy gẫm. Dù rằng không lạ gì, ai cũng thấy, ai cũng biết. Nó cứ tự nhiên lướt đi trước mắt. Ánh sáng chậm (thiều quang mạn), nhưng không chậm chút nào. Một thoáng mà là cả 1 đời người.

“Cổn cổn nhi lai, cổn cổn nhi thệ” (cuồn cuộn đến, cuồn cuộn trôi đi) là câu kết cho 4 câu nói về 4 mùa luân chuyển :

“Thiên phong quyển động xuân nhật đích thiều quang” (ngọn gió cuốn đi ánh sáng mùa xuân).
“Quyển động hạ nhật đích lôi vũ” (cuốn đi sấm sét mùa hạ)
“Quyển động thu nhật đích hoàng diệp” (cuốn đi lá vàng mùa thu)
“Quyển động đông thiên đích băng tuyết” (cuốn đi băng tuyết mùa đông)
“Cổn cổn nhi lai, cổn cổn nhi thệ”

Những tháng mùa thu của năm 2021 đã qua tự lúc nào, nhưng tôi không muốn “lấy quên để xóa nhớ”. Tôi tìm lại những ghi chép - được ghi rõ trong trang FB cá nhân tôi. Trên 22 mẩu chuyện ngắn được viết từ Mid August - Mid November.

Thế là có thì giờ đọc lại điều mình viết. Tự khen hay. Tự cảm động.
   “Vướng Mắc” (Aug. 24, 2021) kể lại chuyện 53 năm trước. “Nhân Tẩu Trà Lương” (Người Đi Trà Lạnh - Aug. 26) nói về tình đời. “Mùa Xuân Nào Em Còn Nhớ” (Aug. 28) kể chuyện 1 thảm trạng của “bên thua cuộc”. “Tìm Không Thấy” (Aug. 30), tìm về quá khứ, làm sao tìm được?...
  Thật là nhiều “tản mạn” trong các bài viết từ Aug. 31 - Nov. 14 như : Tôi Muốn Nói Về Họ, Tàn Cuộc, Ếch Ngồi Đáy Giếng, Những Cơn Mưa Rào, Những Người Muôn Năm Cũ, Nghĩa Tử Là Nghĩa Tận, Một Người Anh, Đoạn Đường Mưa Gió, Trường Tương Tư, (và những hoài niệm với) Câu Trả Lời Được Nhắc Đến, Chuyện Mới Chuyện Cũ, Màu Áo Xưa Thu Vàng, Toussaint 1959. (Rồi) “Ngàn Năm Mây Trắng Bây Giờ Còn Bay” (Tin buồn đến khi 1 bạn nữ sinh cùng lớp ngày xưa ra đi. Là Nguyễn Thị Nga My. Nàng mất vào Nov. 4, 2021).

Thu đi, đông đến. Có Lễ Tạ Ơn, Giáng Sinh. Cũng nhanh trôi qua. Rồi New Year dương lịch và âm lịch 2022, ngày vui qua mau là thế! Những ngày lạnh sau cùng khi ta dần bước vào những tuần cuối của tháng 3 dương lịch. Tháng sau là lễ Phục Sinh.
  Và 30/04/1975 có phải “chỉ còn là kỷ niệm”?

Chủ đề viết hôm nay nói về “thời gian”. Và tôi đang điểm lại FB cá nhân mình theo sự luân chuyển của 4 mùa mà tác giả sách “Thiều Quang Mạn” than : cổn cổn nhi lai, cổn cổn nhi thệ. Thì tôi cũng mượn “Tà huy, tà huy, hựu tà huy” (Đặng Trần Côn) để buồn vì đời mình “hữu hạn”, và “bất lực” trước cảnh “chiều rơi, chiều rơi, chiều cứ mãi rơi”.

Hai chữ “tà huy” in sâu trong tôi từ bao nhiêu năm trước. Khi Thầy Phạm Ngọc Hương giảng Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều năm tôi học Đệ Tam C2 Quốc Học Huế (1957-1958), thì 2 câu “nằm lòng” là :

“Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ. Quán thu phong đứng rủ tà huy”

Có lẽ Thầy Hương luận theo sách “VN Thi Văn Giảng Luận” của Giáo sư Hà Như Chi, nên khi đọc và giảng đến 2 câu trên, thì thầy bảo rằng 2 câu này nên được viết :

“Cầu nước chảy ngồi trơ bến cũ. Quán gió thu đứng rủ bóng chiều”

Thầy nói, như vậy nghe hay hơn. Cũng là sự góp ý của nhiều phê-bình-gia trên các trang sách, báo bấy giờ (và tôi cũng có đọc tham khảo một ít).

Mãi đến vài chục năm sau - dĩ nhiên tôi còn thuộc 2 câu đó - nhớ lại lời giảng và lời đề nghị thay các chữ Hán-Việt “thệ thủy, cổ độ, thu phong, tà huy” bằng “nước chảy, bến cũ , gió thu, bóng chiều”. Nhưng tôi lại vẫn thích nguyên bản, chữ Nôm xen từ-ngữ Hán-Việt. Không phải Ôn Như Hầu thích cách dùng đó, vì trong sách có những câu rất là “Nôm” : “Trăm năm có nghĩa gì đâu. Chẳng qua một đám cỏ khâu xanh rì”.
  Câu thơ xen lẫn Nôm và từ Hán-Việt trên rất là “hoài cổ”. Rất “sinh tình”!

Vì thích hai chữ “tà huy” nên tôi tìm thêm tài liệu từ những tác phẩm Hán-Việt khác. Không đâu bằng “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn. Tìm được :

“Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ (câu 166)
“Kim niên hồi thư đính thiếp quy
“Thư quy nhân vị quy
“Sa song tịch mịch chuyển TÀ HUY
“TÀ HUY TÀ HUY HỰU TÀ HUY (c. 170)
“Thập ước giai kỳ cửu độ vi“”

Đó, bóng chiều là bóng thời gian, cứ vô tình tuôn chảy. “Cuồn cuộn mà đến, cuồn cuộn mà đi”.
(Thư tới người chưa tới. Song the tịch mịch ánh chiều rơi. Chiều rơi chiều rơi lại chiều rơi. Ước hẹn mười phen chín bận dời , - Nguyễn Huy Hùng dịch).

  Bà Đoàn Thị Điểm dịch (không sát) :
“145. Thư thường tới, người không thấy tới
“146. Bức rèm thưa lần dãi bóng dương
“147. Bóng dương mấy buổi xuyên ngang (Tà huy tà huy hựu tà huy)
“148. Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai “”

Có người ví thời gian qua như dòng sông trôi. Chỉ là cách nói. Nước của dòng sông rồi cũng theo cách này cách khác mà trở về chốn cũ, rồi cũng có thể lần thứ 2 đúng “y chang” vị trí, trôi trước mắt ta. Thời gian không thế, một lần đi là không “tái hồi Kim Trọng”.
  “Tà huy” nói lên 1 ngày trôi qua. Sẽ không thể có lại ngày D giờ H, tháng M, năm Y. Bước thêm 1 bước, sẽ không có lại bất kỳ giây, phút, giờ, ngày, tháng của năm 2021. Cứ thế đi tới. Thời gian chỉ có 1 hướng đi TRƯỚC → SAU.

Thơ, văn nói về “thời gian” rất nhiều. Những sự kiện, biến cố mới đây nhất, và hiện tại như hơn 2 năm COVID-19 toàn thế giới, chính trường Mỹ, VN, chiến sự Ukraine, v.v… sẽ trở thành dòng thác thời gian “cuồn cuộn mà đến, cuồn cuộn mà đi”, sẽ thành câu chuyện cổ-tích 100 năm sau.

(Stone Mountain GA - March 9, 2022)
--------------------------------------------------------

31. VỀ NAM
Tối hôm qua “mơ thấy” trong cơn mơ. Không phải sự “hiện thấy” như một khải tượng thuộc tín ngưỡng (tôn giáo) - thường thấy trong Kinh thánh Cơ-đốc-giáo.
  Và cũng đã rất lâu mới có được giấc mơ “không bao giờ hoàn-tất”, nói về những diễn biến “nhân” sau 30/4/1975. Kể từ ngay sau Tết âm lịch 1984, khi chân bước về nhà - được “thả tù”, thì hầu như mỗi đêm đều sống “trong ác mộng”. Những ác mộng cứ vất vưởng bám lấy mình suốt từ đó, kể cả gần suốt thời gian đã qua Mỹ.
  Qua Mỹ rồi, “vẫn chưa yên”, ác mộng cứ vây quanh ta.

Thế rồi, không nhớ lúc nào, tâm hồn có được sự yên-tỉnh. Đã hết những ác mộng như nói trên. Thì tối hôm qua, loáng thoáng trở về trong cơn mơ - hết là ác mộng - là vài chuyện “không đầu đuôi”, không rõ-ràng. Không tái-diễn chuyện cũ, cũng không nói lên tương-lai.
  Sáng nay, khi ngồi ngẫm lại giấc mơ, lại thấy “rất mơ hồ”. Dù vậy, giấc mơ khởi đầu bằng những hoạt-cảnh nô-nức, khi tù “lưu đày tại Bắc” được đem về Nam. Chỉ vậy thôi, mọi chi-tiết rất nhanh biến khỏi bộ nhớ.
  Nhớ gì thì tôi nhớ rất lâu, nhưng nhớ lại từ những giấc mơ, thì rất dễ “bị xóa”.

Quên “mơ” thì nhớ chuyện cũ. May là “quên và nhớ” những gì từ giấc mơ nhận được, đối-nghịch với những sự-kiện xảy ra trong đời ta. Vì rằng “muốn QUÊN một chuyện, so với NHỚ một chuyện, thì KHÓ HƠN RẤT NHIỀU”.

Một ngày của tháng 3/1982, Trại giam Vĩnh Quang A (Vĩnh Phú, Bắc Việt) “biên-chế” các đội tù, báo cho biết ngày hôm sau, tù được chuyển về Nam. Tù-nhân được thông báo phải quẳng-bỏ mọi thứ, chỉ đem theo ? (vài) kg vật dụng “tối cần thiết”. Mọi người tấp nập thu xếp. Tội nghiệp những bạn tù mới được thăm nuôi. Gạo + thực phẩm của những bạn ta thế là trở nên yếu-tố chính trong những cuộc “liên hoan về Nam” của rất nhiều nhóm tù-nhân.
  Hôm nay, ngoài “tù hình sự” (vẫn đi lao-động ngoài trại bình thường), tất cả “tù thuộc chế độ cũ” (nói văn hoa - thật ra họ được gọi thẳng là NGỤY QU N NGỤY QUYỀN) được nghỉ lao động để chuẩn bị rời Trại vào ngày mai.

Tôi không có gì nhiều. Chỉ mấy kg vật-dụng cần-thiết, nhét trong bao (đựng cát) làm “túi hành trang”. Vội chạy qua Đội 2 (rau xanh) để gặp Phạm Văn Nghĩa (bạn cùng K16 VBQG ĐL). Huỳnh Văn Lượm (Cựu Trung tá Lữ đoàn phó TQLC, K17 VBQGĐL) cũng đang trò chuyện với Nghĩa. Lượm ở Đội Nhà Bếp. (Với Lượm, tôi đã có bài viết “MÙA XU N NÀO EM CÒN NHỚ” nói về bạn ta và số phận bạn ta). Nói lời chia tay với 2 bạn. Hẹn “trùng phùng” tại miền Nam VN. Tôi đang thuộc Đội 5, Tổ “CÀY” (Cày ruộng, đúng nghĩa).

Buổi chiều, mọi đội đều được biên-chế, thay đổi chỗ ở (lán giam). Tôi được biên chế vào Đội 1, vội chạy về “lán giam” đội này. Mọi lán giam trước nay đều khóa cửa mỗi đêm, nay hoàn toàn mở rộng. Tù NQNQ (ngụy quân ngụy quyền) được tự do đi lại, quan hệ tự do suốt đêm nay giữa mọi lán giam (trừ các lán giam của 4 đội tù hình sự - vẫn bị khóa cửa như thường lệ).
  Đã gần 10g tối, mọi lán vẫn náo nhiệt. Đèn vẫn sáng. Tuy các đội mới được biên chế, nhưng tù-viên đều biết nhau. Hơn 3 năm qua họ thường qua lại quan-hệ vào những chúa nhật. Hơn nữa, một số đã biết nhau - còn là bạn với nhau - trước kia (trong quân ngũ QLVNCH). Hoàn-tất thu-xếp, “cải tạo viên” tụ họp từng nhóm, ăn uống, nói chuyện, ca hát “rôm rả”.
  Châu (cựu Trung tá Trung đoàn phó - thuộc khóa đàn em) mở đầu bằng một bài hát. Không biết từ đâu mà đương sự có được bài “Em Còn Nhớ Mùa Xuân” của Ngô Thụy Miên. Tôi ép đương sự đọc từng câu để tôi chép trên 1 miếng “các-tông”. Ráng học thuộc, rồi xé bỏ tấm giấy.
  Tôi vẫn còn nhớ cả bài hát đó, để ê-a trong những ngày đầu “ra tù”.

Sáng hôm sau, tù mỗi lán giam tập họp trong sân lán, với hành-trang để trước mặt. Từng món được đem ra. Cán bộ công an khám xét, tịch thu những thứ mà họ cho là không cần-thiết. Đồng thời cũng ướm thử trọng lượng hành trang cá nhân để giảm bỏ bớt vật dụng cho đúng tiêu-chuẩn.
  Hơn tiếng đồng hồ sau, tù-nhân được tập-họp trong sân Trại giam. Cả trại giam có 15 đội, trong đó có 4 đội hình sự (là các đội 8, 9, 10, 11). Tù NQNQ gồm 11 đội, khoảng 600 người.
  Thượng tá công an XXX, Chánh Giám thị Trại (Thủ trưởng) trước loa phóng thanh, nói chuyện. Ông khuyên “cải tạo viên” học tập tiến bộ, phải thật sự lao động. Ông nhấn mạnh, “mọi cải tạo viên chớ bắt chước những kẻ hay làm ăng-ten để lấy điểm …”. Ông không chỉ đích danh, nhưng ám chỉ những phần tử đó (đa số là các đội trưởng).
  (Việc trên làm buồn lòng không ít cải-tạo-viên!)

Đoàn xe Mô-lô-tô-va đã đậu trước cổng Trại giam Vĩnh Quang A. Mọi tù-nhân lên xe, cứ 2 người chung nhau 1 chiếc còng tay. Mỗi 2 người này sẽ “yêu thương” nhau suốt hành-trình về Nam. Cùng ngồi, cùng đứng, cùng đi. Kể cả đi “đại tiện, tiểu tiện” - cái gì cũng “tiện”, kể cả “bất tiện”!
  Từ biệt nhé “cổng Trại giam” - mỗi ngày chịu khám xét nhập trại sau khi lao động bên ngoài về. Từ biệt nhé “nhà thăm nuôi” với những ai từng được thăm nuôi. Từ biệt nhé con đường từ Trại giam đến “Bến Trang”, với 2 bên đường gần trại, là những thửa ruộng. Đội 5 với Tổ cày thường có mặt để cày bừa, gieo mạ, cấy mạ. Từ biệt nhé con đường khoảng-khoát : là công trình làm đường của Đội 14, mà tôi là 1 Tổ trưởng - trước khi đổi qua Đội 5 (1981)

Đoàn xe dừng tại ga Hà Nội. Công an giám thị, công an vũ trang, tù-nhân theo một lối riêng vào ga. Được sắp-xếp thứ-tự trong các toa. Thật lý tưởng! Ra Bắc (1976) trong các toa (chở súc vật) kín mít, gần 60 người mỗi toa : không ít tù chỉ đủ chỗ cho 1 chân. Về Nam, 4 cải-tạo-viên ung dung ngồi 1 bàn (dĩ nhiên vẫn 2 người chung nhau 1 còng tay). Cửa toa lớn, nhỏ đều mở rộng. Hình như vài toa mới có 1 công an vũ trang ngồi tại cửa lớn (lên xuống). Nhân viên phục vụ hỏa-xa lui tới nhộn-nhịp lo cơm nước cho tù.

Xình-xịch tiếng tàu chạy. Còi tàu thét. Tiếng rầm-rập khi tàu qua chỗ “kẽ” của đường rầy. Rất dễ ru ngủ. Nhưng không một tù-nhân nào ngủ được. 6 năm tại miền Bắc, chắc chắn là những chuyến du-lịch “không tiền khoáng hậu” (đến nay đã kín hằng “tấn” với con số lớn hơn 10 và lũy thừa e trên 3 của những sách, báo).
  Đều rướn cổ nhìn qua cửa sổ của toa.

Tàu nhẹ nhàng qua khỏi Bình Lục, Ninh Bình - mặc tấm thân nặng-nề của nó! Đầu óc chúng tôi thảnh thơi, tâm tư chúng tôi nhẹ nhàng! Qua Thanh Hóa, quê ta. Rồi có ngày ta sẽ về thăm. Sẽ ở lâu hơn, chứ không lướt qua như thế này. Qua Nghệ An. Qua Hà Tĩnh. Là “Thanh-Nghệ-Tĩnh”!

Mới xế trưa, thì mọi người nhốn-nháo. Công an vũ trang la hét, kêu gọi tù-viên trong toa mau mau kéo kín cửa sổ. Đá, sỏi to từ bàn tay đến nhỏ như ngón chân cái từ mé đường rầy tới-tấp ném vào các toa tàu. Có người bị trúng đá, bị thương - kể cả công an, nhân viên phục vụ. Đương nhiên có tù bị thương. Họ ngồi ngay tại bàn sát cửa sổ, khó di chuyển (chung còng tay). Tàu chạy chậm. Cãi nhau dữ dội giữa công an coi tù và dân + quân đứng tại mé đường rầy. Tàu vội (được lệnh) chạy nhanh hơn, dù tiếp cận ga Đồng Hới. Là Đồng Hới, Quảng Bình!
  Đã 7 năm qua rồi (sau 1975), sao lòng hận thù chưa nguôi, hỡi đồng bào Đồng Hới? Đất nước đã đủ tang-thương. Bọn tù chúng tôi cũng không vui gì. Chúng tôi còn mất mát nhiều hơn. Không chịu cảm thông với chúng tôi hay sao?

Xế chiều, tàu qua ga Huế. Ôi Huế thân thương. Hầu như tất cả những người bán hàng rong dọc ga Huế đều ném vào các toa. Đi khỏi Quảng Bình, qua Quảng Trị, thì các cửa lớn, nhỏ của tàu đều mở rộng. Ném vào toa không phải là những viên đá, sỏi. Mà là đủ loại bánh trái, thực phẩm dưới hình thức nem, chả, nắm xôi, cơm v.v…
  Huế của tôi ơi!

Đường rầy vòng vào ga Đà Nẵng khi tàu chậm lại, thì đã xâm xẩm tối. Không phải tại ga, mà cả gần cây số dọc đường rầy tiếp-cận ga, là người dân Đà Nẵng. Họ la hét : “Chờ các anh lâu lắm rồi”. Cũng là những túi ni-lông bọc sẵn mọi thứ đồ ăn, được ném vào toa.
  Bọn tù chúng tôi biết. Các thím các bác, các chị các cô đã chờ chúng tôi 7 năm qua. Đa số những người đàn bà này là mẹ, là vợ của những kẻ “nghìn dặm lưu đày”. Các bà, các chị ơi, chúng tôi đang về Nam, nhưng phải còn thêm ít lâu nữa mới được thả về nhà.

Vĩnh Quang (A) ơi, hơn 3 năm qua (1978-1982) với mi, đã đủ đau thương trong ta. Đúng 40 năm từ chỗ mi, trên đường về Nam, thì Huế và Đà Nẵng đã đủ an-ủi ta rằng VN vẫn còn trong tim ta.

(Stone Mountain GA - March 16, 2022)
-------------------------------------------------

32. VÕ LỰC - EM KẾT NGHĨA - MỘT CHIẾN HỮU
Chữ “ Em Kết Nghĩa” nghe như chuyện giang hồ. Và chuyện giang hồ với những băng đảng trộm cướp, thanh toán nhau thì không ai lạ gì chuyện “Bố Già” Mỹ, các gia tộc Mafia Mỹ …hay Đại Cathay (Sài gòn, Chợ Lớn) thời VNCH.
  Chuyện VN xưa có nói về “Lưu Bình, Dương Lễ” kết nghĩa - chẳng qua là nhà văn Nguyễn Văn Ngọc phỏng theo truyền thuyết tình bạn kết nghĩa giữa Tô Tần và Trương Nghi (xem Sử Ký của Tư Mã Thiên). Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có nói về Lưu Quan Trương “vườn đào kết nghĩa”... Rồi tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung thì rất nhiều cảnh giang hồ kết bạn. Quách Tĩnh & Dương Khang. Trương Vô Kỵ & Từ Đạt & Thường Ngộ Xuân, v.v…

Có lẽ thế hệ “lỡ thời” chúng tôi - những người sinh ra cuối thập niên 30 và đầu thập niên 40 - vẫn chịu ảnh hưởng của các thế hệ trước về truyền thống VN, về văn hóa Á đông (nhất là văn hóa Trung Hoa). Tình quê hương (khi rời xa), tình đất nước & dân tộc (mà quyết đấu tranh khi bị ngoại xâm), tình bạn kết giao …
  Khi còn là học sinh thì kết thân với những bạn hợp ý mình. Tạm gọi là “bạn thân”. Bấy giờ cũng thấy những nhóm kết-nghĩa với nhau “trích máu ăn thề”.

Võ Lực bấy giờ là 1 binh sĩ CIDG (ăn lương Mỹ), cấp Trung đội trưởng, dưới quyền tôi. Chắc chắn vào những ngày đó, tôi khó mà gọi những thuộc-cấp là “em kết nghĩa”. Mà vì thế tôi đã ân hận. Giờ, nhiều người đã ngã xuống vĩnh viễn, và tôi có mong muốn, cũng muộn rồi.
Tháng 5/1965, từ chức vụ Phó Toán A103 LLĐB kiêm Trại phó Trại Dân Sự Chiến Đấu, Gia Vực, Quảng Ngãi, tôi thành Toán trưởng + Trại trưởng, thay Đại úy Ngụy Hiền (khóa 13 VBQGĐL). Ông có lẽ về lại đơn vị cũ là Lôi Hổ (Người Nhái).
  Trại có 3 đại đội CIDG (ít lâu sau đổi thành Strike Force [Biệt kích quân]). Sinh hoạt, hành quân với các đơn vị này, tôi chú ý nhiều đến 1 Trung đội trưởng. Là Võ Lực như đã nói trên. Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) chỉ có các chức-vụ : lính, tiểu đội trưởng + phó, trung đội trưởng + phó, đại đội trưởng + phó, mà không có cấp bậc như các đơn vị chính quy (hạ sĩ, trung sĩ, thượng sĩ, chuẩn úy, …). CIDG do Mỹ (CIA) trả lương.

Lực quê ở Quảng Ngãi. Lần đầu gặp Lực, trông rất trẻ - chưa đến 20. Hơn tháng sau, qua sự đánh giá riêng và trao đổi với Cố Vấn Mỹ, và các quân nhân có liên quan - nhất là qua ý kiến của Thiếu úy Nguyễn Tấn Chi, cố vấn đại đội mà Lực trực thuộc, tôi đề nghị lên BCH/C1/LLĐB tại Đà Nẵng thăng chức cho Lực làm Đại đội phó. Nguyên do cũng vì người Đại đội phó đương nhiệm vốn bị thương và nằm quân y viện khá lâu (hơn 1 tháng).
  Giữa tháng 7/1965, tôi nhận được lệnh bổ nhiệm mới, làm Chỉ huy phó BCH/B20 LLĐB đang được tân lập tại Quảng Ngãi (để chỉ huy 5 Tiểu đoàn BKQ/BP tại Quảng Ngãi). Đại úy Đinh Công Bảo thay thế tôi tại Gia Vực.

BCH/B20 LLĐB dưới quyền Thiếu tá Tôn Thất Thuận (khóa 10 VBQGĐL), đã hỗ-trợ Vùng 1 Chiến Thuật (Khu 12 chiến thuật) ổn định lại an ninh lãnh thổ 4 quận miền núi (Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng) tại Quảng Ngãi và 1 đặc khu hành chính là Gia Vực. Đến tháng 12/1965, thì tôi kiêm nhiệm Trưởng Toán A123 LLĐB + Tiểu đoàn trưởng BKQ/BP tại Hà Thanh, Sơn Hà, Quảng Ngãi. Tôi thay Trung úy Phan Văn Khánh (khóa 12 VBQGĐL). Ông được điều về C2 LLĐB (Pleiku).
  Lên Sơn Hà, tôi gặp lại Võ Lực. Em đã lên chức Đại đội phó.

Và cũng với Toán A123 LLĐB, cùng các đại đội BKQ/BP thuộc Trại Hà Thanh, Sơn Hà, tôi gặp lại vài quân nhân LLĐB trước đã cùng tôi “hành quân biên giới” khu vực Tako, Quảng Nam (Lào-Kontum-Quảng Nam). Và 1 số Dân Sự Chiến Đấu - sau khi căn cứ Tako đóng, đã được bổ sung cho Trại Hà Thanh này. Có Thiếu úy Nguyễn Văn Đáp, trước là chuẩn úy Toán Phó tại Tako (A103LLĐB).
  Hỏi Lực, thì ngay khi tôi đi khỏi Gia Vực, Lực cũng đã được BCH C1 chấp thuận đề nghị của tôi mà thăng chức và đổi lên Sơn Hà 1 tháng sau đó.

Tháng 9/1966, Trại + Quận Sơn Hà bị địch tấn công. Suốt gần nửa tháng cầm cự, nhờ không-yểm tích cực của không-quân Mỹ, và cuộc hành quân giải tỏa áp lực bởi Sư Đoàn Không-Kỵ Hoa Kỳ (đóng tại Chu Lai, Quảng Tín), địch rút lui. Tiểu đoàn BKQ/BP chúng tôi phản kích. Chiếm lại tất cả thôn ấp bị chiếm. Mở rộng khu vực với 8km bán kính lấy Trại và Quận làm trung-tâm. Đặc biệt, phía Tây giáp Di Lăng, phía Nam tiếp cận Quận đường cũ (cách chỗ hiện tại khoảng 10km), phía Đông đến Đồng Ké, qua khỏi cầu sông Giang, phía Bắc truy kích địch vùng núi đồi giáp Trà Bồng.
Lực góp công không ít trong việc phòng thủ, ngăn chặn địch xâm nhập. Hăng hái trong truy kích địch. Tôi đề nghị Lực lên Đại đội trưởng, thay thế vị đại đội trưởng đương nhiệm tử thương vì trúng pháo địch. Quyết định đến rất sớm, trong ít ngày sau.

Và với Lực, tôi còn 1 kỷ niệm thật đáng ghi nhớ. Tháng 10/1966, hành quân đột kích Huyện-ủy địch tại Gò Tro (cách trại 8km, phía Tây-Bắc). Trung đội Thám sát của Tiểu đoàn bị đại đội huyện vây đánh. Trung đội trưởng Hoàng tử thương. Khoảng 10 BKQ bị thương và chết, được gom về bìa rừng. Trung Sĩ Nhất Phạm Xuân Vĩnh (LLĐB), cố vấn Trung đội Thám Sát cầu cứu. Tôi và đại đội của Lực + trung đội súng nặng (57 ly SKZ + 81 ly Súng Cối) cách đó 1km. Dặn Lực ở lại bảo vệ súng nặng, tôi dẫn trên 1 Trung đội tăng viện.
Vào mé rừng phải qua khu vực ruộng lúa (đã thu hoạch) rộng khoảng 300 mét. Vào thì ổn, súng địch êm re! Nhưng khi trở ra, thì đại liên, trung liên địch từ 2 mé đông nam và tây nam đan chéo, ngăn không cho chúng tôi lui ra. Thêm vài binh sĩ bị thương.
  Tôi gọi Lực, gom tất cả M79, chia thành 2 tổ, băng qua ruộng, hướng 2 phía địch mà át đi cường độ xạ kích của địch. Tổ súng cối 81 + 60 chia nhau mà chặn địch phía trước. Cũng đã yêu cầu súng cối 106 ly (4’2) từ trại yểm trợ, nhưng Cố vấn Mỹ từ chối vì ta + địch quá tiếp cận.

Lực thành công, làm giảm mức đáng kể cường độ xạ kích của địch. Lực gặp tôi. Tất cả triệt thoái từng chặng theo chiến thuật “chân vịt”. Binh sĩ, kể cả Lực, vây quanh tôi, chạy từng chặng. Tiếng đạn địch bớt rất nhiều, vẫn vút ngang tai.
  An toàn trở ra khỏi rừng. Tôi cảm ơn Lực và binh lính. Lực chỉ trả lời rằng, khi tình nguyện vào BKQ, chỉ mong “xanh cỏ đỏ ngực”. Lực học vấn không cao (chỉ học đến đệ Ngũ), chỉ ao ước, thời loạn là chiến binh, thời bình thì về làm nông. Lực mới cưới vợ.

3/1972. Tôi ở Minh Long, Quảng Ngãi. Chiến sự cả nước bộc phát mãnh liệt. 3 “điểm” là An Lộc, Tân Cảnh, Cổ thành Quảng Trị. Tại Nam Quảng Ngãi không kém, nhưng là “diện”, nên trong nước (VNCH) ít để ý đến. Tăng viện cho mặt trận Ba Tơ là Tiểu đoàn 60 BĐQ vốn đang đóng tại Sơn Hà. Thiếu Tá Lương Bá Duân, Tiểu đoàn trưởng + Võ Lực, Đại đội trưởng tử trận. Và quá bán đơn vị thương vong.

Tôi từ Minh Long vẫn hằng theo dõi chiến sự qua máy truyền tin của Quận/Chi khu. Biết ngay Duân, 1 chiến hữu rất thân, và Lực, 1 người “em”, đều tử trận. Cho đến hôm nay, tôi bao lần tự hỏi sao trước kia đã không từng xem - hay đề nghị - Lực là “em kết nghĩa” của tôi! “Chiến hữu” là đương nhiên “danh từ chung” cho những người cùng chung chiến tuyến, mà “em kết nghĩa” thì không dễ gì. Đúng là quý-hóa, sao tôi lại không trao đổi với Lực khi Lực còn sống? Để đến nay lòng còn ray-rứt mãi không thôi?

(Stone Mountain GA - Aug. 16, 2021, edit. On March 30, 2022)
----------------------------------------------

33. ĐỜI TA BỐN MÙA LUÂN CHUYỂN
Không phải “Mùa xuân đầu tiên” như bài hát của nhạc sĩ Tuấn Khanh, mà là MÙA XU N ĐẦU ĐỜI của tôi. Đó là Tết nguyên đán âm lịch, dĩ nhiên là cùng với mùa xuân. Năm 1943, vì còn nhỏ, chỉ thấy những hoạt-cảnh thanh bình của đất nước.
  Có thể 1 năm trước đó, tôi cũng đã hưởng 1 Tết âm lịch cũng thanh bình, vui nhộn - nhưng tôi đã không còn nhớ chút gì, chắc vì chỉ vài ba tuổi, chưa có ấn tượng. Duy còn dính lấy trong óc tôi, thoáng hình ảnh tôi và người em họ (con cô ruột tôi) tên Sơn, lớn hơn tôi 2 tuổi. Thoáng cảnh chúng tôi cùng nhau chạy từ trong nhà ra sân, chạy quanh nhà. Sau cùng tôi rớt vào 1 hố vôi phía trước. Nhà của bà nội tôi lần ấy rất đông người gồm các cô, cậu, dượng, chú, bác, bố mẹ tôi. Sau này lớn lên, tôi mới được bà nội tôi cho biết, ngày ấy là “lễ mừng thượng thọ 70 của bà” (1942) - và năm sau nhà được bán, bà vào Huế, sống tại Từ đường họ Trần trên Nam Giao (đồi Quảng Tế, thôn Dương Xuân Thượng).

Tết 1943 thật đáng nhớ. Chỉ được các cô, cậu, dì, bác … nhất là 2 bà nội, ngoại - cho những đồng tiền xu. Sau này (và bây giờ) mới biết thời đó đã có những tờ bạc giấy về xu, hào, đồng.
  Có lẽ lúc đó, tôi cũng đã thấy những tờ giấy bạc, nhưng tôi vẫn muốn những đồng xu. Vì dễ dàng sử dụng ngay : để đánh đáo, để mua bánh kẹo …
  Theo bố mẹ đến đình làng. Tôi không nhớ những thủ-tục rườm rà, mà chỉ nhớ những dĩa xôi, thịt heo, bánh chưng, bánh tét, chè, bánh ngọt, …Không biết gì về quan lớn, chỉ nhận diện hay nghe tiếng các ông lý trưởng, chánh tổng, cụ tiên chỉ. Chỉ vậy thôi. Tôi chưa đủ lớn để biết các ông trương tuần gì đó, đuổi bọn tôi chạy “tóe khói” vì tội đã rủ nhau ăn cắp chuối cúng ở đình làng, mấy năm sau.

Chợ Tết thật náo nhiệt. Đánh đáo “mệt nghỉ”, tôi lại chạy theo chúng bạn đi xem “biểu diễn chặt mía”. Các tay võ sĩ, trai tráng trong làng tranh nhau thể hiện tài nghệ. Đoạn mía dài vài gang tay người lớn được cắm xuống đất (độ sâu như nhau, lỗ khá cạn). Dao thật bén. Chắc sức cánh tay hẳn thật mạnh. Phải có kỹ-thuật (chắc biết võ nghệ).
  Chặt ngang đoạn mía, đoạn trên đứt rơi xuống, nếu đoạn dưới còn lại không ngã văng khỏi lỗ, là thắng giải. Cả mấy chục người tranh nhau - chỉ được 1 lần. Mặt đều dài ra. Nhưng cuối cùng cũng có người làm được và thắng giải. Phải là hôm sau.

Thời đó, là tại làng tôi, nơi tôi sinh ra. Làng tên ? , huyện Đông Sơn, Thanh Hóa. Cách “Thành Nhà Hồ” (còn gọi là Tây Đô) không xa. Ít năm sau, tôi thường lang thang từ nhà đến cửa Thành, không tốn nhiều thì giờ.

Rồi, những mùa xuân sau cứ tiếp nối, và đến nay mùa xuân thứ 82 mới qua đi. Là xuân của tôi. Có những mùa xuân thuở học trò. Những mùa xuân chinh chiến. Và những xuân của “nghìn dặm lưu đày”. Nhưng chỉ 1 mùa xuân thật đáng ghi nhớ, mà cuối tháng sau - đa số người Việt Hải Ngoại - những người lòng còn “lưu luyến” thời “vàng son” của 2 nền Cộng Hòa của miền Nam VN, 1954-1975 (mà “sử lòng” gọi là VNCH) - sẽ làm kỷ niệm.
  Tôi sẽ không nói thêm về mùa xuân ấy. Vì là “xuân tang” chung cho những người vừa được nêu trên. Mà lòng tôi đã cảm thấy rằng, chỉ mùa xuân 1975 hiện ra trong trí nhớ, thì mọi mùa xuân khác trong đời đã không còn ý nghĩa nữa.

Tôi lại mượn câu nói của “Đông Thiên Đích Liễu Diệp”, tác giả cuốn “Thiều Quang Mạn” (chưa dịch hết ra tiếng Việt, và chương cuối tôi đọc là 326) :
“Thiên phong quyển động xuân nhật đích thiều quang” - NGỌN GIÓ CUỐN ĐI ÁNH SÁNG MÙA XU N

Mùa hạ đến với ta, nếu vui thì chỉ vào khoảng phượng nở hoa, vừa ngoài đời của những tháng hè 5, 6, 7, và trong đời ta “là tuổi học trò”. Đại-đa-số người “góp chuyện” trên FB đều kinh-nghiệm điều này. Vậy miễn bàn.

Thế nhưng, những chàng trai chinh chiến một thời của 2 thập niên 1954-1975, không thể quên “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Chúng ta cũng không quên nhà văn quân đội Phan Nhật Nam (khóa 18 VBQGĐL) với bài viết có tựa đề trên, đã - vừa khiến thổn thức vừa khiến lòng chiến binh sôi trào - trong giai đoạn khủng khiếp của chiến tranh, với Máu và Lửa. Hằng vạn quân, dân ngã xuống. Hằng ngàn thôn làng, đô thị hoang tàn. Miền Nam VN khốn khổ những hè 72, 73!

Trở về câu nói trong “Thiều Quang Mạn”, tôi vội viết :
“Quyển động hạ nhật lôi vũ” - CUỐN ĐI SẤM SÉT MÙA HẠ

Mùa thu thường cho những cảm nghĩ “BUỒN”. “Màu áo xưa thu vàng” là câu trong bài hát “Đường Về” của Vũ Đức Sao Biển (nhạc sĩ mới qua đời ít lâu). Và câu đó cũng là bài viết ngắn của tôi, khi nhớ 1 độ vào thu, gặp 2 người đẹp, cùng mặc áo vàng. Rồi những mùa thu qua trong đời. Và ai cũng có những kỷ niệm riêng. Tôi ao ước đọc những bài “cảm tưởng” về thu. Nhất là “Autumn in NY”.

Tôi xin gửi 1 đoạn thơ nói về “Thu” của 1 người vừa là đàn anh của tôi, vừa là 1 tri kỷ (là anh Phan Tấn Mỹ - khóa 13 VBQGĐL) :
“Qua rừng chợt thấy rừng vàng ối
“Cỏ đã che mờ vết chiến xa
“Khói lửa đã tàn, thu vẫn đợi
“Vẫn một hành trang : nỗi-nhớ-nhà “”

Và tôi lần nữa ghi lại câu trong “Thiều Quang Mạn” :
“Quyển động thu nhật đích hoàng diệp” - CUỐN ĐI LÁ VÀNG MÙA THU

Mùa đông cho ta những cảm nghĩ gì? Lần đầu tiên thấy tuyết rơi, là tháng 11 (tuần cuối) tại New York, năm 1994. Chỉ là một chút hiếu kỳ. Những tháng năm tại Mỹ nói chung, và tại NY nói riêng - nhất là khi còn làm việc, và lái xe trong bão tuyết (NY) - thì phần lớn khiến tôi khó chịu, vất vả với mùa đông. Vậy, mùa đông chỉ là chuyển mạch từ Thu qua Xuân. Tôi không vui gì với mùa đông. Nên quên nó đi!

Và câu thứ tư của “Thiều Quang Mạn” (khi nói về 4 mùa) là :
“Quyển động đông thiên đích băng tuyết” - CUỐN ĐI BĂNG TUYẾT MÙA ĐÔNG

Để rồi, lòng tôi thổn thức với câu thứ 5 từ tập truyện trên :
“Cổn cổn nhi lai, cổn cổn nhi thệ” - CUỒN CUỘN MÀ ĐẾN, CUỒN CUỘN RỒI ĐI - Và thời gian thì cứ chảy mãi. Trôi đi mà không hề trở lại. “Bôn lưu đáo hải bất phục hồi”!

(Stone Mountain GA - March 29, 2022)
------------------------------------------------------ 

 34. CHUÔNG HỒI KIM CỔ
Tính một chiều dài từ thời Hậu Lê qua bài thơ “Chùa Trấn Quốc” của Bà Huyện Thanh Quan đến nay, thì thật đúng với : “Sóng lớp phế hưng coi đã rộn”.
  Dù rằng Bà Huyện Thanh Quan sinh vào mấy năm đầu của vua Gia Long, Nguyễn triều - nhưng “lịch sử đang mới sang trang” từ nhà Hậu Lê, với “vua Lê chúa Trịnh” Đàng Ngoài và chúa Nguyễn Đàng Trong, nên tinh thần “hoài Lê” chưa lạnh và chúng ta có Nguyễn Du. Thơ của bà rất “hoài cổ”.
  Những biến cố lịch sử tiếp nối, chỉ hơn 80 năm độc lập của VN dưới triều Nguyễn (1802-1885) cũng đã lắm chuyện. Rồi triều Nguyễn kế tiếp dưới sự đô-hộ của Pháp cho đến 1945, thì lịch sử VN càng rõ hơn.
  Khi vua Bảo Đại thoái vị, giao ấn tín cho Việt Minh năm 1945 (là Đảng Cộng Sản Đông Dương trá hình), thì VN đã qua một giai đoạn khác về chính trị. Chỉ 2 năm ngắn ngủi, 1945-1946, VN tiếng là độc lập, nhưng tiềm ẩn vẫn là những thế lực sau lưng (Cộng sản Đông dương, Trung hoa quốc gia, Pháp, Nhật). Dĩ nhiên vẫn có những thành phần quốc gia VN (đúng nghĩa), không dựa vào thế lực ngoài VN - có thể kể đến các đoàn thể tôn giáo, các đảng phái “không cộng sản”.

Đang còn những ý kiến chủ quan khác nhau về ý nghĩa chính trị trong biến cố mà chính quyền VN ngày nay (hay CSVN nói chung) gọi là “Cách mạng tháng Tám”.

(Bài viết của TS Đoàn Xuân Lộc “Ý kiến : Việt Minh nắm quyền do đâu?”, ngày 19/8 năm 2015, gửi cho BBC từ Anh quốc, có đoạn kết :
  “Tuyên truyền rằng ‘ Cách mạng tháng Tám ‘ thành công là nhờ vào việc chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng VN là GIẢ DỐI, nếu không muốn nói là LỐ BỊCH.
  Tuyên ngôn độc lập ông Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9 không đề cập đến gì ‘ Cách mạng tháng 10 ‘ của Nga năm 1917 hay ‘ chủ nghĩa Mác-Lênin ‘. Trái lại, bản tuyên ngôn ấy được mở đầu bằng việc trích dẫn ‘ Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ ‘ và ‘Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791’ “)

Trong bài viết trước “CHỈ CÒN LÀ KỶ NIỆM”, ông bạn già của tôi (Nghĩa), đã đặt vấn đề “chính nghĩa” của VN từ 1945-1975. Còn từ 1975 đến nay, thì còn chờ lịch sử phê phán. Tôi đã không nói hết ý của bạn tôi. Ông ta đã cho rằng, kể từ sau 1885, thì chính nghĩa các triều đại VN có vẻ “khó nghe”. Ông nói thêm, rằng cũng tính đến nay. Ông nhắc cho tôi, rằng ngày xưa, nhà Hồ, nhà Mạc - tuy cai trị VN vài chục năm mỗi nhà, thì lịch sử cũng đã nêu “không ít vấn đề”.

Đề tựa bài này “CHUÔNG HỒI KIM CỔ”, thu hẹp phạm vi. Vì rằng, 4 chữ này nằm trong bài thơ “Chùa Trấn Quốc” của Bà Huyện Thanh Quan, đặc biệt là 2 câu : “Sóng lớp phế hưng nghe đã rộn. Chuông hồi kim cổ lắng càng mau”...
  Già rồi, nên tôi hơi lan man. Chủ ý muốn nói “Chuông hồi kim cổ lắng càng mau”, thì tôi lại “lôi ra” câu đi trước “Sóng lớp phế hưng nghe đã rộn”. Để rồi vào “Mê Hồn Trận” của các triều đại VN theo ý “hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan. Cứ thế “lạc lỏng” về các nền chính trị VN từ 1945.

Lẽ ra đề tựa nên viết nguyên câu “Chuông hồi kim cổ lắng càng mau”, và tập trung vào 3 chữ sau “LẮNG CÀNG MAU”.

Ai đã từng nghe tiếng chuông chùa, chắc để ý rằng có (hình như 108) ? tiếng chuông. Ban đầu chậm rãi. Không biết kể từ tiếng chuông thứ mấy (có lẽ thứ 40 hay 50 trở đi) thì nhịp độ mau hơn.
  Là tháng ngày của những năm khoảng 1948-1955, lúc sống với bà nội tôi. Và những chiều yên tĩnh, bà tôi nhẩm đọc kinh Phật, còn tôi thì nghe tiếng chuông chùa. Chùa Châu Lâm cách nhà thờ họ Trần - nơi bà nội tôi ở - khoảng 1 km theo đường chim bay (đường thẳng).
  Mỗi lần nghe tiếng chuông, tôi đều đếm. Rồi quên mất đã đếm đến tiếng chuông thứ mấy. Lần trước đếm không xong, tôi lại hẹn lần sau. Tôi đã không tính được bao nhiêu ngày mà 2 bà cháu lặng yên mỗi chiều như thế.
  Tôi không nhớ khi nào là lần sau cùng nhất nghe trọn tiếng chuông chùa - vẫn không thể “đếm” hết, vẫn không biết đích xác có bao nhiêu tiếng chuông.

Làm sao có được sự “trọn vẹn” như ý? Đừng buồn!

Người vĩnh viễn ra đi thì lúc nào mà không xảy ra? Mỗi ngày? Đó là “định luật” : Sinh - Lão - Bệnh - Tử.
  Bài viết hôm nay, tôi thu hẹp phạm vi, chỉ những bạn cùng khóa 16 VBQGĐL.
  Những năm đầu, khi mới ra trường, cấp chức thấp - đại đa số chúng tôi đều chọn đơn vị “chiến đấu”. Bạn NVP là người đầu tiên “tử nạn” hơn 1 tháng trước khi mãn khóa. Đã là 1 tin buồn “khủng khiếp”. Rải rác năm sau, rồi năm sau nữa, đã ít nhiều rơi rụng. Xa thì chỉ biết âm thầm tiễn bạn. Gần thì chịu khó tiễn đưa.
  Từ sau 1968 trở đi, cuộc chiến leo thang. Được cái là không ít trong chúng tôi đã có chức vụ cao hơn, cấp bậc đã là cấp “Tá”. Tử trận cũng có nhưng hiếm hoi.

Không khác chi tiếng chuông chùa. Tiếng thứ 2, tiếng thứ 3 … tiếng sau chờ tiếng ngân của tiếng trước chấm dứt, mới bắt đầu “lên tiếng”. “LẮNG CÀNG MAU” có nghĩa, càng về sau càng dồn dập. Không cần chờ tiếng trước “dứt điểm” (tiếng ngân).

Từ 2020 trở đi, bạn cùng khóa dồn dập vĩnh biệt. Mới 2 năm, con số cũng đã 20 người. Hai hôm trước, bạn tôi, Nguyễn Văn Cảnh, linh hồn đã được Chúa JC đón nhận. Anh là tín đồ công giáo. Cảnh vốn là Cựu Trung tá TQLC. Tháng 9/1972, anh và Tiểu đoàn TQLC dưới quyền anh, đã cắm ngọn cờ vàng ba sọc đỏ lên Cổ thành Quảng Trị.
  Cảnh là người thứ 145 của khóa 16 VBQGĐL vĩnh viễn ra đi. Anh qua đời ngày 23 tháng 4 năm 2022. Thọ 82 tuổi.

Khoảng 6 năm trước, Cảnh từ Houston, TX đến Atlanta “ngao du”. Bạn ta thuê hotel gần phi trường. Không quen đường xá nơi đây, bạn ta gọi tôi. Đã thường trao đổi phone những tháng, ngày trước đó về lịch trình thăm bạn tại Atlanta. Tôi cũng nao nức. Thế rồi, tôi có bệnh trong người ngay khi bạn đến thăm. Đã không gặp nhau từ 1962, thế mà tôi đã lỡ dịp. Cùng Đại đội 1 SVSQ năm 1960 với nhau. Bấy giờ có 71 tên. Nay chỉ còn 30.

Tin Cảnh mất được báo trong ngày, do 1 bạn cùng khóa Hien Tran đưa lên FB. Tôi viết comment : “Vĩnh biệt Cảnh. Chia buồn cùng tang quyến. “Cổn cổn nhi lai, cổn cổn nhi thệ”. Ào ạt các năm đầu của thập niên 60. Tuổi đôi mươi ngày đó biết bao hoài vọng! Tiễn bạn hôm nay, mai tiển ai? Ai tiễn ta? Tử diệc hà khổ, sinh diệc hà hoan?”.

Hai năm trước (2020), Cảnh bắt chước Bùi Quyền, cùng về Nam Ca-li. Quyền trước ở San Jose, CA. Cảnh thì từ Houston, TX. Bắt chước làm chi? Mấy tháng sau, Quyền ra đi ở tuổi 83 (mất cuối 5/2020).

  Không phải “Chuông gọi hồn ai” của E. Hemingway. Mà là CHUÔNG HỒI KIM CỔ LẮNG CÀNG MAU.

Nhân sinh nhân thế ơi, thế hệ của những lứa đi trước - của thập niên 30, và bắt đầu 40 - đang dồn dập. Kẻ âm thầm, cũng có kẻ muốn tâm tình mình + thế hệ mình được chút gì ghi lại.
  Ai là “KẺ ĐỢI TÀU”? Ai “KHÔNG LÀ KẺ ĐỢI TÀU”?

(Stone Mountain GA - April 25, 2022)
----------------------------------------------

35. THẦY CŨ
Quốc Học 11/1959 - Đây là lớp Đệ Nhất C2, niên khóa 1959-1960. Tôi chỉ còn nhớ các thầy dạy môn chính : Thầy Nguyễn Quới (Pháp), Thầy Dương Thiệu Tống (Anh). Triết có Linh Mục Cao Văn Luận (Tâm lý Học, Đạo đức học, Triết học Đông phương), Thầy Nguyễn Văn Trung (Luận lý học), Thầy Lê Tuyên (Siêu hình học).
  Về bạn cùng lớp, khoảng 25 người. Nữ sinh có 10. Nam sinh khoảng 15. Tôi chỉ nhớ tên vài bạn nữ sinh : chị Kim Cúc (trên 25 tuổi - đã có chồng, con), Nga Mi, Tường Nhi, Kim Hải, và Thanh.
  Chỉ nhớ vài nam sinh : Tôi, Phan Tường Tứ, Đoàn Duy Hinh, Nguyễn Công Hào, Đặng Trần Chuyên, Trương Thúc Cổn, Tô Phạm Liệu.

Chắc tôi thuộc diện những học sinh “ít tuổi” nhất, nên rất ngỗ nghịch. Năm học này tôi được chỉ định làm trưởng lớp. Thường là do kết quả năm trước, mà nhà trường (Ban Giám thị), chỉ định các trưởng lớp vào đầu năm học sau. Tôi nhận ưu hạng năm trước, Đệ Nhị C2.

Tôi quên đề cập Thầy Nguyễn Hữu Thứ, dạy Sử. Sở dĩ phải nhắc đến thầy, vì từ thầy mới có câu chuyện hôm nay.

Một hôm, giờ Thầy Thứ vừa xong. Trước khi ra khỏi lớp, thầy nhắn. Rằng chừng 2 tiếng nữa, Tòa Thượng Thẩm Huế sẽ xử chung thẩm vụ án khiến xôn xao dư luận cả gần 2 tháng nay. Thầy bảo thầy cũng đi dự vụ xử này. Là vụ 1 Trung úy bắn chết 1 Trung úy cùng đơn vị. Bị can khi sau công tác xa, về sớm hơn dự tính, bắt quả tang vợ mình gian dâm cùng vị sĩ quan kia, nên rút súng bắn chết tình địch.

Thầy Thứ lưu ý, rằng ai muốn đi xem, có thể đi ngay. Tôi “dọt” liền. Nhưng phải leo qua cửa sổ. Vì giờ tiếp theo là giờ Pháp văn của Thầy Quới, và chỉ còn mươi bước nữa thì thầy sẽ bước vào lớp.

(Vào hôm sau, Tô Phạm Liệu kể cho tôi nghe). Thầy Quới ổn định trên ghế xong, đưa mắt nhìn học sinh. (Gần như thói quen) Thầy hỏi : “Òu est Đ.?” Liệu mau mắn trả lời :
“Il s’enfuit par la fenêtre”. Chỉ vậy thôi. Tôi không bao giờ ngồi yên trong lớp. Hay xoay qua phải qua trái, quay phía sau rướn phía trước, để nói chuyện. Chắc làm phiền các thầy không ít.

Hôm sau, trên bảng niêm yết gần cổng (hông phải) viết : Học sinh … lớp Đệ Nhất C2, đã bỏ học giờ Pháp văn vào ngày … mà không xin phép. Phạt cảnh cáo : 3 ngày không được đến lớp.
(Đây là lệnh phạt đầu tiên xảy ra đối với 1 học sinh lớp cao nhất của trường. Thường thì hình thức này chỉ đến với các học sinh lớp dưới mà thôi. Mỗi lớp có sổ điểm danh, nếu vắng mặt không lý do, thì bị đánh dấu. Nếu xảy ra nhiều lần trong tuần hay trong tháng, mới bị phạt theo hình thức trên).

12 năm sau, vào cuối 1971. Tôi đang ở tại Quận Minh Long, Tỉnh Quảng Ngãi. Thời điểm này các nơi đang vận động tranh cử vào Quốc hội (VNCH). Những ứng cử viên tại Quảng Ngãi vội, hoặc đích thân hoặc cử đại diện của mình đến các quận hạt thuộc Tỉnh để vận động. Quảng Ngãi có 10 quận và 1 đặc khu hành chánh : - 6 quận trung châu (Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Sơn Tịnh, và Bình Sơn), - 4 quận miền núi (Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà, Trà Bồng), - 1 Đặc khu hành chánh là Gia Vực.

Quận Minh Long là quận miền núi, dân số không nhiều, chỉ khoảng 10.000 cử tri.

Chiều hôm ấy, tôi được Tòa Tỉnh báo cho biết sẽ có ứng cử viên Nghị sĩ Nguyễn Quới, thuộc liên danh XXX đến quận để vận động. Thấy tên, tôi nghĩ ra ngay Thầy của mình ngày xưa. Tôi biết Thầy là con của ông Nguyễn Vỹ, trước coi Nha Học chánh Trung nguyên Trung phần (ở Huế) - khác với nhà văn Nguyễn Vỹ, tác giả cuốn “Tuấn, chàng trai nước Việt”.

Trực thăng đến, đáp xuống sân bay quận/chi khu Minh Long. Tất cả các quận miền núi đều có phi đạo dành cho các phi cơ nhẹ, vận tải nhẹ như L19, Caribou, C123, C130, … Đây là nói về miền Nam VN trước 1975.
  Trong số người bước xuống, tôi nhận ra Thầy ngay, dù đã hơn 10 năm xa nhau. Thầy sẽ ở đêm tại Minh Long, rồi sáng mai sẽ có trực thăng đón Thầy qua quận khác.
  Buổi chiều, cơm nước tươm tất xong, tôi mời thầy đến phòng làm việc của tôi. Sát cạnh có vài phòng ngủ : của tôi và phòng vãng lai dành cho quan khách. Chuẩn bị chỗ ngủ cho Thầy, và những tiện nghi khác, cùng 1 binh sĩ sai vặt.

Ngay lúc Thầy từ trực thăng bước xuống, tôi đã tự giới thiệu là 1 học sinh của Thầy vào 12 năm trước. Hai thầy trò nhẩn nha tâm sự. Thầy kể sơ qua những diễn biến về Thầy. Vài năm sau khi tôi rời Huế mà vào quân ngũ, thì thầy cũng xong Tiến sĩ Văn chương Pháp, và dạy Đại học Huế. Chức vụ hiện nay của Thầy là Khoa trưởng Văn khoa Đại học Huế (hoặc Đại học sư phạm Huế - tôi không nhớ rõ). Thầy nói muốn ra tranh cử Thượng viện VNCH cùng Liên danh XXX. Muốn nhờ tôi vận động trong phạm vi Minh Long.
  Tôi hứa : “Thầy yên tâm. Dân số ở đây 8/10 là đồng bào sắc tộc, không hiểu về chính trị nhưng rất nghe lời tôi. Tôi bảo đảm liên danh này phải được 95% số phiếu”.
  Nhưng tôi thắc mắc và hỏi Thầy : “Thầy đang giữ chức vụ cao về Giáo dục, quá ổn định rồi, cần gì vướng vào cơn lốc chính trị?”
  Thầy hơi buồn, đáp : “Biết vậy nhưng gia đình chi phí nhiều. Giá sinh hoạt mỗi lúc mỗi cao, lương Thầy chỉ 70.000$/tháng không đủ. Lương Nghị sĩ khoảng 200.000$ chắc chắn giúp gia đình đông con của Thầy nhiều hơn. Hơn nữa, các bạn thân trong Liên danh ước mong có tên Thầy - qua uy tín của Thầy - giúp thêm hy vọng đắc cử của Liên danh. Khó mà từ chối”.

Vui buồn tâm sự, tôi chợt kể câu chuyện xưa trốn học với 3 ngày phạt không được đến lớp. Chỉ vui câu chuyện và không ác ý. Thầy : “Xin lỗi, tôi thật không nhớ. Chắc lúc ấy trong lòng tôi có chuyện bực bội, sẵn dịp vào lớp không thấy Thiếu tá - mà quả thật Thiếu tá hồi đó nghịch quá, không thầy nào mà không lưu ý đến Thiếu tá. Thầy nào vào lớp cũng nhìn cho ra Thiếu tá, xem các học sinh khác - nhất là mấy cô - có ai kiện cáo Thiếu tá không”.

Thực hiện lời hứa, tôi đến các xã vận động cho Thầy. Liên danh XXX có tên Thầy đạt được 98% số phiếu bầu tại Minh Long. Kết quả sau cùng, Liên danh XXX đắc cử. Thầy trở thành Thượng Nghị sĩ cho đến 4/1975.

(Stone Mountain GA - July 29, 2021 - edited on May 7, 2022)
--------------------------------------------

36. TOÁN A103 LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT VN MỘT THỜI
(PHẦN 1) - Đó là A-Tou, một địa danh thuộc Quảng Nam. Từ Khâm Đức đi về chính Tây khoảng 30 km, là nó. A-Tou còn có tên khác, TAKO. Người ta hay dùng A-Tou, để nói lên những căn cứ biên phòng nằm dọc biên-giới Lào-Việt, kéo dài từ Quảng Trị đến Quảng Nam. Chúng là A-Shau, A-Lưới, A-Ró, A-Tou từ Bắc xuống Nam. Trước kia nằm giữa chúng, sâu vào nội địa VN, còn có Tà-Bạt, Nam Đông. Nhưng 2 căn cứ sau đã sớm “đóng”, khoảng năm 1964. Tại Quảng Tín có Trại LLĐB Trà Mi.
  Tôi vẫn thường dùng tên Ta-Ko. Khi nhận nhiệm vụ, thì Ta-Ko được viết trong lệnh hành quân. Đầu tháng 11/1964, tôi vừa nhảy 1 saut “dù bồi dưỡng” tại Khe Sanh, thì nhận được lệnh bổ nhiệm mới.

Hơn tháng trước, có vấn đề giữa tôi và cấp trên là Đại úy Chính, CHT/TTHL Hòa Cầm, Quảng Nam. Nói trắng ra, 1 vi phạm rất nhỏ của tôi (có 1 lần rút ngắn giờ dạy Chiến thuật cho khóa sinh từ 4 tiếng còn 3 tiếng, để đi Đà Nẵng vì chút việc riêng).
  Tôi cũng ỷ lại, năm trước, tôi và Đ/úy Chính cùng được thuyên chuyển về BTL/LLĐB tại Sài Gòn. Mỗi người đều là Trưởng 1 Toán, thực hiện công tác có tính cách chính trị hơn là chiến thuật, trước sự xáo trộn chính trị tại Sài Gòn vào bán niên sau của 1963.
  Không ngờ ông ta lại quyết liệt với tôi, đề nghị BCH/C1/LLĐB điều tôi khỏi Hòa Cầm. Đại úy Nguyễn Đức Khoái, CHT C1 LLĐB, cấp SVL cho tôi đến Trại Phạm Tất Khắc, Khe Sanh, Quảng Trị, đặt dưới quyền Trưởng Trại là Đại úy Vũ Văn Giai.

Năm trước, khi còn ở Sư đoàn 2 BB, tôi đã là đại đội trưởng - tháng 6/1963, tôi xử lý Tiểu đoàn phó, tạm thay Đại úy Hoàng Mộng Lân đi thụ huấn khóa CH &TM (6 tháng). Giờ đây, tôi sẽ giữ chức cố vấn đại đội.

Một việc tương tự xảy ra cho 1 bậc thầy của tôi, và cũng là thầy chung của các khóa 16, 17, 18, 19. Năm 1965, nghĩa là sau câu chuyện của tôi ít tháng, Đại Tá Trần Ngọc Huyến, nguyên CHT Trường VBQGĐL, được “Đại Tướng” (kiêm …đủ thứ) Nguyễn Khánh trọng dụng, rồi không hiểu sao (có lẽ Đại Tướng gặp lúc 2 sợi nóng, lạnh trong não bộ Ngài chạm nhau), Ngài lại ban 1 lệnh bổ nhiệm “hết sức độc đáo” cho Đại Tá Huyến. Vị Thầy của chúng tôi phải khăn, gói lên đường. Phải trình diện trước vị Tiểu đoàn trưởng của 1 tiểu đoàn thuộc Quân đoàn II, để giữ chức “cố vấn đại đội” (y như chuyện của tôi). May thay, vị Đại đội trưởng là khóa 16 VBQGĐL, là khóa “cưng” của Đại Tá. Học trò phải lo cho Thầy.
  Không lâu sau, thế thời xoay chuyển, vị Đại Tướng kia phải rời ngai vàng, đi công du thế giới (không được về nước). Thầy của chúng tôi buồn tình, xuất ngũ, nhận lời coi sóc 1 công ty xăng dầu Mỹ tại Sài Gòn.

Trại Khe Sanh bấy giờ do Đại úy Vũ Văn Giai làm Trưởng trại (Vào 8 năm sau ông là Chuẩn tướng, Tư Lệnh SĐ 3 BB). Trại có 2 Toán A LLĐB, 1 của VN, 1 của Mỹ. Thiếu úy Trịnh Ngọc Điệp, khóa 17 VBQGĐL, là Trưởng toán A ? LLĐB kiêm Trại Phó. Trình diện Đ/úy Giai, tôi được chỉ định làm cố vấn cho đại đội 101 Dân Sự Chiến Đấu (CIDG). Đại đội trưởng tên Hiền.

Tôi và Điệp biết nhau khi còn học trong quân trường Đà Lạt. Tôi khóa 16, Điệp khóa sau. Dù vậy, trên nguyên tắc, tôi là cấp dưới của Điệp. Trước khi lên Khe Sanh, tôi biết mình sẽ gặp Điệp. Tôi đem chuyện mình sẽ thăng Trung úy vào tháng sau (12/1964) trình bày với Đ/úy Khoái, CHT/C1/LLĐB. Ông nói, sẽ giải quyết rất sớm trước khi tôi thăng cấp.

(PHẦN 2) - Có người thắc mắc rằng đề tựa viết “TOÁN A 103 …” mà sao cả trang giấy đọc qua lại không thấy đề cập gì đến đơn vị này chút nào.
  Vào phần 2, tôi muốn vài lời : Toán A103 LLĐB VN này cũng như nhiều Toán A LLĐB VN khác, thường gồm khoảng 12 quân nhân. Có 2 SQ, 1 là Toán Trưởng, 1 Toán Phó. Có 1 Thượng sĩ làm Thường vụ Toán. Số còn lại là những hạ sĩ quan và binh sĩ (Đa số là Trung sĩ hoặc Trung sĩ Nhất - có 1 hay 2 là cấp hạ sĩ).

Toán Phó và những nhân sự khác của Toán A103 LLĐBVN đã có mặt tại Ta-Ko gần 3 tháng trước, với Quyền Toán Trưởng là Chuẩn úy Chung. Chung đã có lệnh chuyển đi nơi khác.
  Lẽ ra tôi đã sớm lên Ta-Ko, nhưng vì dư hưởng cơn bão lụt 1964 đã ảnh hưởng cuộc hành quân trực thăng vận (tôi + 1 đại đội tăng phái từ Khe Sanh).

Vừa nhận chức “cố vấn” đại đội, lại phải vất vả đối diện mưa gió nặng nề, tôi và đại đội 101 DSCĐ nhận lệnh hành quân tuần thám Nguồn Rào, 1 địa danh cách Lao Bảo 5 km về hướng Bắc. Tchepone Lào cách Nguồn Rào khoảng 10 km hướng Tây-Bắc. Nguồn Rào nằm ngay biên giới Lào-Việt.
  Thật sự thì cuộc hành quân này chỉ nhằm mục đích hỗ-trợ và giữ an ninh cho 1 Toán A LLĐB VN tuần trước đã xâm nhập đường bộ, vào Quảng Bình, nhưng thất bại. Bị phát hiện, bị truy kích. Chịu thương vong quá nửa. Toán phó Pháo và vài quân nhân tử trận. Số bị thương nặng bị để lại. Trưởng Toán He và vài hạ sĩ quan thoát chạy, gọi máy xin Trại cứu viện.
  Điệp cùng trên 10 quân nhân + 1 xe Dodge 4 chạy lên Lao Bảo ứng chiến. Tôi dẫn đại đội 101 DSCĐ giữ an ninh lộ trình rút của Toán Biệt Kích còn sống sót.

Thời gian còn lại với Khe Sanh không dài. Đầu tháng 11/1964, thời tiết khá hơn, đã có chớm nắng. Hành quân về, đại đội 102 của Chuẩn úy Lương Bá Duân đến phiên, lên đường 2 ngày sau. Sáng sớm, Duân rủ tôi và Chuẩn úy Đoàn Bá Nhung (đại đội 103) xuống làng Khe Sanh uống cà-phê “cứt chồn”, cách Trại hơn 1 km. Nửa đoạn đường là 1 quán miến gà. Quán cũng là Chi hội Tin Lành Khe Sanh. Vợ và con gái Mục Sư đứng bán. Cô XX thật xinh, hòa nhã. Quân nhân Trại, ai cũng đến ăn sáng nơi đây.

Chuyện xưa thì nhắc đến người cũ. Chuẩn úy Nhung tử trận ít năm sau. Lính chiến mấy ai hẹn ngày về? Chuẩn úy Duân năm sau học Nhảy Dù. 1969, lên Đại úy, là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn BKQ/BP tại Gia Vực. 1972, những tháng đầu, chiến cuộc bộc phát mạnh ở Nam Quảng Ngãi, Duân đã lên Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng TĐ 60 BĐQ. Tử trận lên cố Trung tá, tại Ba Tơ, Quảng Ngãi. Những năm này, tôi chiến đấu cận kề đơn vị của Duân.

Vẫn 1 ngày thượng tuần tháng 11/1964, sau cuộc nhảy dù bồi dưỡng, thời tiết được loan báo tốt trong vòng tuần tới. Nhảy dù xong, bài thơ thứ 4 mới viết cho vợ ít câu, lại có lệnh hành quân trực thăng vận lên Ta-Ko.
“Anh làm bài thơ thứ tư. Rồi nhảy một saut giả từ Khe Sanh”.

Cảm ơn Đại úy Nguyễn Đức Khoái, CHT/C1/LLĐBVN đã không quên lời hứa. Một lệnh hành quân + lệnh bổ nhiệm đồng thời được ban ra. Tôi được chính thức bổ nhiệm làm Trưởng Toán A103 LLĐBVN kiêm Căn-cứ-trưởng căn cứ hành quân biên-giới Ta-Ko. Đại đội 101 DSCĐ sẽ tăng phái cho cuộc hành quân này. BCH C1 sẽ bổ sung cho Trại Khe Sanh 1 đại đội DSCĐ vừa được huấn luyện xong tại TTHL Hòa Cầm vào tuần sau.

(PHẦN 3) - Đến Ta-Ko đúng là một chiều nắng hanh. Nhưng thật lạnh. Một đoàn chừng 6 chiếc trực thăng H34 chở tôi cùng hơn 50 DSCĐ + 1 số vật dụng tiếp tế + vài quân nhân Mỹ sau công tác hoặc phép về. Từng chiếc đáp xuống, thả người rất nhanh. Sân căn cứ không đủ rộng cho cả 6 trực thăng cùng đáp. Chuẩn úy Chung chạy vội đến, vội leo lên trực thăng, nghiêm chỉnh chào tôi.
  Đại đội 101 DSCĐ sau những tổn thất những tháng qua, quân số còn lại khoảng 70. Tôi, sau khi kiểm tra, cho phép gần 20 người bệnh, bị thương, ở lại Khe Sanh.
Thế là :
“Bài thơ thứ tư chưa viết hết. Thì mình đã rời khỏi Khe Sanh. Trời đất nghiêng nghiêng về Khâm Đức. Đến Ta-Ko một chiều nắng hanh”.

Thượng sĩ Nhất Lò Văn Inh, Thường vụ của Toán A103 LLĐBVN đón tôi. Dẫn tôi đến căn hầm dành cho Toán trưởng kiêm Căn cứ trưởng. Một DSCĐ là cần-vụ-viên có sẳn, chào tôi. Thấy còn sớm, chỉ khoảng 3 giờ chiều, tôi yêu cầu Thượng sĩ Inh triệu tập cả Toán A và các đại đội trưởng đang có mặt tại căn cứ, có cuộc họp ngắn. Tôi cần biết ngay tình hình tổng quát, về địch và bạn.
  Đủ cả Toán A - trừ 2 người đi phép, và Trung sĩ nhất Đường, bận truyền tin - có chuẩn úy Nguyễn Văn Cớt, đại đội 122, chuẩn úy Lâm Thanh Sơn, đại đội 121. Riêng Thiếu úy Trần Văn Ba, đại đội 123 đang dẫn đơn vị hành quân bên ngoài.

Nửa giờ sau, Đại úy Moon, Toán trưởng Toán A LLĐB/HK, là cố vấn trưởng căn cứ, đến gặp tôi. Ông mời tôi đến khu vực sinh hoạt của Toán Mỹ, để ông giới thiệu Toán A Cố vấn Mỹ.

Các ban 2, 3 thuyết trình tình hình địch bạn. 20 km hướng Tây-Bắc là căn cứ A-Ró, do 1 Toán A LLĐBVN và 3 đại đội DSCĐ + 1 Toán A/LLĐB/HK. Thỉnh thoảng, 2 căn cứ sẽ phối hợp hành quân liên-khu-vực.
  Sử dụng số hơn 50 CIDG của đại đội 101 từ khe Sanh được tăng phái đến, thì tôi để nguyên mà không phân tán. Tôi sắp xếp số đó thành Trung đội Thám sát, chia làm 3 Tiểu đội. Luân phiên nhau có 1 Tiểu đội hành quân gần, ngoài căn cứ, tuần thám. Số còn lại, giữ an ninh cho BCH Trại.
  Giữ an ninh khu vực Toán Mỹ, có 1 Trung đội người Nùng, khoảng hơn 40 người + 1 toán dân sự (thông dịch viên, bếp, tạp dịch, y tế). Đều do Mỹ thuê từ Đà Nẳng.
  Quân số đầy đủ của 3 đại đội CIDG (121, 122, 123) + trung đội thám sát + BCH căn cứ (gồm 2 Toán A Việt, Mỹ) + lính Nùng + dân sự (đều trang bị vũ khí) đưa tổng số căn cứ trên 500 người chiến đấu được.

Công việc chính yếu của căn cứ Ta-Ko là tuần thám trong phạm vi hoạt động 10 km bán kính. Tuy nhiên chỉ cách biên giới Lào-Việt có 3 km, nên chúng tôi chỉ có thể bí mật vượt qua Lào không quá sâu (trong vòng 3 km), vì phía Mỹ từ chối vượt biên cứu viện, nếu đi quá xa. Chủ yếu là truy dấu Tiểu đoàn Vận tải Bắc Cộng, lên xuống trên đường mòn HCM. Trong phạm vi trách nhiệm, đường mòn HCM sâu vào Lào không quá 3 km. Hành quân trên 1 đại đội, tôi chỉ cho luẩn quẩn dọc biên giới. Chỉ cử những toán nhỏ cấp tiểu đội, bí mật đi sâu vào Lào không quá 3 km, chỉ để thăm dò và phát giác mọi xuất hiện của địch. Yểm trợ hoặc cứu viện chúng tôi hoàn toàn do Không lực Mỹ và lực lượng Mỹ có mặt tại Vùng 1 Chiến Thuật.

Cứ thế, sinh hoạt chiến đấu tại Ta-Ko tiếp diễn đến giữa tháng 3/1965. Không có đụng độ nảy lửa. Tổn thất không nghiêm trọng. Địch biết ý chúng tôi, nên đường mòn di chuyển được làm thêm, sâu hơn vào nội địa Lào. Thật tình có cả hàng chục đường mòn HCM, nhập rồi rời nhau, đan qua nhau đủ cách.
  Binh sĩ chết trận thì ít, chết bệnh thì nhiều. Sơn lam chướng khí, sốt rét, thương hàn nhập lý, đủ loại. Họ đúng là “chiến sĩ vô danh”. Hoạt động âm thầm, không ai thăm viếng, ủy lạo. Nói gì đến thăng thưởng?

Giữa tháng 3/1965, tôi nhận được lệnh “close camp”. Bỏ và phá hủy căn cứ. Vui, buồn lẫn lộn.
“Em ơi, Ta-Ko nhiều gió lạnh. Em ơi, Ta-Ko nhiều mây vương. Em ơi, Ta-Ko nhiều hiu quạnh. Làm sao anh vơi được nhớ thương?”
  4 tháng xa gia đình, sống căng thẳng ngày và đêm, chắc chắn là nguy hiểm. Bỏ căn cứ, ai nấy đều vui : có dịp nghỉ vài ngày phép, về thăm nhà. Cũng chút vương vấn. Có chiến hữu nằm vĩnh viễn bên kia biên giới, không lấy được xác. Có những giọt máu nhỏ xuống nơi “sơn cùng thủy tận” này! Cũng là 1 kỷ niệm của thời chinh chiến. Và có thể nói, rời nơi này hôm nay, hẳn sẽ không bao giờ gặp lại.

Chiếc trực thăng chót chở tôi và viên Trung sĩ Hoa Kỳ (chuyên viên phá hoại), và vài binh sĩ CIDG. Trung sĩ Mỹ này và tổ DSCĐ đặt xong giây cháy chậm đến từng căn hầm, kho lớn kho nhỏ, không sót chỗ nào. Hàng tấn thuốc nổ đen, trắng (TNT, C3, C4, …) được sử dụng gấp bội theo chiết tính cho mỗi vị trí. Các kho vẫn còn đầy vật dụng : lương thực, vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng đủ loại, v.v… Binh sĩ chỉ đem theo 1 cấp số đạn dược. Tất cả đều để lại và bị tiêu hủy.

Châm ngòi dây cháy chậm xong, viên Trung sĩ chạy về Trực thăng - vẫn để máy, cánh quạt vẫn phần-phật.
  Trực thăng chót này rời đi đã 10 phút. Cũng cách xa trên 15 miles. Một tiếng nổ lớn còn nghe được, rồi từng tràng tiếng nổ khác - liên miên, bất tuyệt. Tiếng nổ có thể liên tục nổ hằng tiếng đồng hồ, nhưng trực thăng đã quá xa, không còn nghe tiếng nổ, mà chỉ thấy khói ngút cả 1 vòm trời. 2 phi cơ thả bom Mỹ xuất hiện, hướng về Ta-Ko. Không phải là phát “ân huệ”, mà muốn giảm thiểu mức tối đa vật liệu có thể rơi vào tay địch. Dĩ nhiên không thể phá hủy “toàn bộ”. Vĩnh biệt Ta-Ko!

(PHẦN 4) - Khi rời căn cứ, quân số căn cứ còn khoảng 400. Tổn thất không nhiều. Nhân số được điều động : 2 toán A Việt và Mỹ sẽ về Khâm Đức ít ngày, sau đó chuyển về Trại Gia Vực, Quảng Ngãi thay thế cho 2 toán A Mỹ-Việt tại đây. Số CIDG sẽ tạm trú tại căn cứ Khâm Đức, chờ bổ sung cho các nơi khác vốn thiếu hụt quân số.

Ngay tại Khâm Đức, tôi đã có lệnh về trình diện BCH/C1/LLĐBVN để nhận SVL học khóa 3 LLĐB tại TTHL/LLĐB tại Đồng Ba Thìn, Nha Trang.

Tháng 5/1965 mãn khóa LLĐB, tôi về lại C1 LLĐB, nhận SVL đến Trại Gia Vực. 3 tháng trước, Toán A103 LLĐBVN về Gia Vực, tên thì còn, nhưng nhân sự đã thay đổi gần hết. Đại úy Ngụy Hiền (khóa 13 VBQGĐL) làm Toán trưởng kiêm Trại trưởng. Lần này tôi lên Gia Vực, thay Đại úy Ngụy Hiền. Vẫn là Toán trưởng A103, nhưng là Quyền Trại trưởng Gia Vực. Đ/úy Hiền trở về đơn vị gốc là “Người Nhái”/Lôi Hổ.

Về Gia Vực, tôi lo củng cố hệ thống phòng thủ, kiện toàn các công sự, hầm hố. Khai triển tuyến trong, thiết lập thêm giao thông hào …Quân số trại chỉ có 400 (của 3 đại đội CIDG). Bán niên đầu của 1965, tình hình Quảng Ngãi sôi động. Địch chiếm Đồng ké, Ba Gia, quận Minh Long, kiểm soát 1 số thôn xã thuộc quận Mộ Đức.
  Thế là về Gia Vực, trở lại với Toán A103 được vài tháng, tôi lại nhận nhiệm vụ mới : thành lập B20 LLĐBVN. Tôi là Sĩ quan Phụ Tá (bấy giờ Toán B theo quy chế Mỹ không có Chỉ Huy Phó, chỉ có C.O. và X.O.). Thiếu Tá Tôn Thất Thuận là CHT.

Thay tôi tại Gia Vực là Đại úy Đinh Công Bảo. Toán A103 còn tồn tại cho đến 1970, sau khi các Tiểu đoàn BKQ/BP chuyển sang BĐQ/BP. Kể từ 1971 trở đi, chiến cuộc leo thang cả nước, với 3 điểm trọng tâm : An Lộc, Kontum, Quảng Trị.
  Gia vực trồi sụt theo tình hình. Nhưng vẫn im ả, dù cuộc chiến Nam Quảng Ngãi khiến mất Ba Tơ, mất Sa Huỳnh. Một số địa điểm khác bị đe dọa nghiêm trọng. Tổn thất nhiều cả đôi bên. Quận trưởng Mộ Đức, Ba Tơ tử trận. Các Tiểu đoàn trưởng BĐQ (TĐ 60, 69) tử trận. Liên đoàn trưởng ĐPQ Quảng Ngãi tử trận.

Thế nhưng Gia Vực vẫn kiên trì. Tháng 9/1974, Gia Vực bị địch vây hãm. Tiểu đoàn 70 BĐQ (với ban chỉ huy Tiểu đoàn mà tiền thân là A103 LLĐBVN - nay chỉ còn là kỷ niệm, dù sao tên A103 còn mãi trong họ)

Tôi bấy giờ coi quận Đức Phổ, yên tâm khi thấy tại Thạch Trụ, Mộ Đức, xuất hiện Liên Đoàn 12 BĐQ. Tôi đến thăm Đại Tá Trần Kim Đại, LĐT. Phong phanh biết Tướng Trưởng có ý định tăng viện giải tỏa Gia Vực. Tôi mừng thầm.

  Đại úy Trần Nghĩa đang là Tiểu đoàn trưởng TĐ 70 BĐQ tại Gia Vực. Vì nhiều lý do, kế hoạch giải tỏa Gia Vực đã không được thực hiện. LĐ12 BĐQ rút về Quảng Nam.
  Tại Gia Vực, Đ/úy Nghĩa đích thân đến chỉ huy 1 chốt quan trọng, với 1 đại đội BĐQ phòng thủ. Nghĩa và sĩ quan đại đội trưởng tử trận. Chốt bị chiếm. Các chốt khác đồng loạt cũng bị đánh chiếm. 2 tuần sau, Trại Gia Vực do Thiếu tá Hoàng Trọng Khải mới đến, chỉ huy chống trả. Địch quá mạnh, tấn công. Khải và số còn lại không đến mấy chục, mở đường máu thoát lui, nhưng đều bị bắt, kể cả Trung tá Châu, Liên đoàn phó LĐ 11 BĐQ mới vừa được trực thăng thả xuống vài ngày trước.

Chỉ còn 40 người gồm binh sĩ + vợ con, thoát về phía Kontum. 10 ngày sau, chỉ sống sót 21 người, được Phi đoàn Song Chùy cứu, bốc về Đà Nẵng.
(1 người quen thân với tôi, Nguyễn Dân Việt trong số sống sót, cung cấp tin tức này)

Tiểu sử + ký sự về Toán A103 LLĐBVN chỉ có vậy. Tên thì đã “hết gọi” từ lâu, nhập vào tên 70 BĐQ. Và tên mới này dĩ nhiên cũng biến mất từ sau tháng 3/1975, khi 21 binh sĩ sống sót từ trận chiến Gia Vực, được trả về TĐ 70 BĐQ tái lập (đóng tại Sa Huỳnh, Đức Phổ) từ 2/1975.
  Ngày 27/3/1975, Đức Phổ hoàn toàn bị địch chiếm, các binh sĩ sau cùng của TĐ 70 BĐQ - với tiền thân là A103 LLĐBVN - bị bắt.
(Quảng Ngãi nói chung được báo cáo bị địch chiếm ngày 25/03/1975)

(Stone Mountain GA - Jul. 27, 2021, edited on June 11, 2022)
----------------------------------------------
 
 
 37. CÁI GIÁ PHẢI TRẢ
Chuyện xưa chuyện nay, quá nhiều minh họa điển hình cho “Cái Giá Phải Trả”. Tôi thích chuyện Tàu.

Câu Tiễn nước Việt cuối thời Xuân Thu, Trung-hoa-sử, chắc đã trả cái giá cao nhất - hơn cả sự chết. Từ làm vua 1 nước, bại trận, rồi nhục nhã làm tên coi ngựa, nếm phân của kẻ thù. Được thả, không quên mối hận, luôn “nằm gai nếm mật (đắng)”. Cuối cùng trả được thù.
  Câu “Sĩ khả sát bất khả nhục” không áp dụng trong trường hợp này.

Phạm Lãi, mưu thần của Câu Tiễn, biết mình biết người, đã chọn cho mình hướng đi. Sau trở thành Đào-công, giàu sang bậc nhất.

Khác với Khuất Nguyên nước Sở, thời Chiến quốc. Ông này không biết có phải trả cái giá cho thiên Ly Tao, Sở Từ, Thiên Vấn hoặc con đường quan-trường của mình, qua cái chết trầm mình xuống sông Mịch La - thì tôi không biết, nhưng điều chắc chắn rằng dù ông không vội chết vì thế-sự, thì các áng văn thơ của ông cũng khiến ông lưu danh vạn thế rồi. Chết sớm quá uổng, Khuất tiên-sinh!

Còn Văn Chủng? Sách lược 7 bước, khiến vua Câu Tiễn mới thực hiện bước thứ 3, đã trả được thù, nước lấy lại, nghiệp bá vươn lên. Ông còn mơ-màng nỗi gì để không hiểu được Câu Tiễn - theo lời khuyên của Phạm Lãi. Vẫn còn khờ khạo (ông là Tể tướng, là quân sư, chắc không khờ khạo chút nào) mà nói với Câu Tiễn rằng, sách lược còn 4 kế chưa thực hiện. “Xuống âm phủ mà thực hiện”, là câu trả lời. Cho Văn Chủng, và cho hậu thế.

“Không thành công thì thành nhân”, Nguyễn Thái Học đã trả cái giá, là cùng các đồng chí, chịu chém đầu vì lòng yêu nước. 13 liệt sĩ VNQDĐ hy sinh tại Yên Bái ngày 16 tháng 6 năm 1930. Còn vài ngày nữa, người Việt chúng ta cúi đầu tưởng niệm những anh hùng này, cho ngày “lịch sử”!

Lịch sử VN cứ đi về trước. Gần nhất là mới đây thôi, thế mà đã gần 70 năm, khi Ngô Đình Diệm nhận chức Thủ tướng, 1954. Câu “không thành công thì thành nhân” của Nguyễn Thái Học - theo cảm nghĩ cá nhân tôi - cũng áp dụng cho 2 anh em họ Ngô Đình, là các ông Diệm và Nhu. Lịch sử lần hồi cũng lên tiếng, trả lại sự thật. Không ai, cá nhân hay tổ chức nào, có thể bóp méo nó.

Cái giá của đại-đa-số chiến sĩ VN từ sau 1945 đến 1975, dù với tình huống nào, họ đã hy sinh, thương vong. Còn sống sót thì phần bị tàn phế, phần nghèo đói, thiếu thốn mọi thứ, cả vật chất đến tinh thần. Họ kém học. Mục đích chiến đấu của họ chỉ trong tầm mắt, trong tầm tay có thể nắm bắt. Nhưng họ trả giá cao nhất.

Về những kẻ khốn cùng này, còn “khốn cùng” hơn những kẻ khốn cùng trong “Les Misérables” của Victor Hugo, sự đề cao hoặc được nói đến rất “chung chung”. Họ dễ bị phỉnh lừa. Họ dễ thành những chiến sĩ “cuồng tín”, khi những “nhà hùng biện” lái họ về mặt tôn giáo, chính trị.

Có vẻ như tôi đã cảm thấy được sự nghiệt ngã của số phận con người, của vận nước. Tôi thấy được sự độc ác của những cá nhân, những đoàn thể, đảng phái.

Thật ra, tôi chỉ biết được cái giá phải trả mà riêng tôi đã nhận. Mỗi người biết phận mình.

Từ lúc hớn hở chọn cho mình con đường tương lai sẽ đi, tôi quá lạc quan, quá chủ quan. Sau 10 năm của quá trình, tôi mới từng bước nhận diện được chính mình. Tôi đặt lại vấn đề “lý tưởng”. Chỉ là những vũng bùn trong đó ta bước đi. Giày lau đi, mai cũng lấm lại. Tôi không còn con đường nào khác để lựa chọn.

Khi biết hoàn cảnh người nô lệ, nó không thể quyết định cho tương lai nó. Đất nước VN cũng thế. Sau 1975, thì “bên thắng cuộc” huênh hoang với cái giá mà mỗi người trong họ đã trả. Trong số họ cũng có những người “đáng thương xót”. Mà là đa số.
  “Bên thua cuộc” thì khỏi nói. 47 năm qua, được nói nhiều rồi. Tuy nhiên, cái giá của họ phải trả gấp đôi. Quá trình tranh chiến giống nhau, giá phải trả (phần 1) giống nhau. (Phần 2), họ phải trả thêm giá vì “thua cuộc”.

Đến nay thì mọi việc đã qua nhanh chóng. Đời người như “bạch câu quá khích”! Tôi thích Phạm Lãi. Tôi tiếc cho Văn Chủng. Tôi sợ Câu Tiễn. Tôi không hiểu Khuất Nguyên.

Và chính tôi, tôi cũng không hiểu tôi! Không tính được cái giá mình đã trả. Có lúc tưởng mình “được” hơn “mất”, thì cái giá đã trả “thấm béo” gì. Có lúc nghĩ rằng mình chỉ thấy “mất” mà thôi, thì hóa ra, tôi lại “được”. À, “phá rồi lập” là vậy đó. Hạt lúa giống nếu không chết đi, thì làm sao có được những nhánh lúa vàng nặng trỉu?

(Stone Mountain GA - June 11, 2022)
-----------------------------------------
 
38. BÀ MỸ HÀNG XÓM …
… vừa qua đời. Lady này khoảng 60, bệnh hoạn.

Cái chết của bà khiến tôi nghĩ đến sự ra đi của 2 người bạn : - 1 vào năm ngoái (2021), - 1 vào 2 năm trước (2020).
  Mai Đức Khôi là bạn cùng khóa 16 VBQGĐL. Bạn tôi ở Nam Ca-li, sống đơn độc. Khôi có 2 người em học cùng khóa quân trường Đà Lạt. Là Mai Nguyên Hưng, phi công chiến-đấu-cơ AD-6, tử nạn khoảng 1965. Người em khác, Mai Trung Ngọc, ở Pháp, từ trần 5 năm trước (2017).

Khôi sống lặng lẽ, ít tiếp xúc. - ngay cả với những bạn thân - tại 1 căn phòng thuê ở Nam Ca-li. Tháng 5/2020, bạn bè lâu không thấy Khôi xuất hiện. Người ở quanh gần đấy không thấy bạn tôi bước ra khỏi phòng đã 1 tuần. Police được báo cáo, đến xem xét : Khôi qua đời khoảng 10 ngày trước.

Người cháu, con của Mai Trung Ngọc, gọi Khôi là bác ruột, từ TX về Nam Ca-li lo thủ tục tang lễ, hỏa táng. Con gái của Khôi + chồng con còn ở VN.

Một bạn nữ sinh cùng lớp 62 năm trước - Nga My - cũng đã sống đơn độc các năm cuối đời tại Los Angeles. Từ L.A. bạn tôi được chuyển về bệnh viện tại Fountain Valley, CA. Cô ta (đúng 80) mất vào Nov. 4, 2021 mà mãi đến ngày 13, thân nhân mới được báo tin. Thủ tục tiếp theo mới được tiến hành. Chừ, thì “tro tàn” của bạn tôi cũng  đã được chuyển về cố hương (Huế, VN).
       
Từ gần 2 tháng trước, căn nhà MH (manufactured home) số 401, sát căn nhà của 2 vợ chồng già chúng tôi (số 403) lại có người đến ở.
(Hình bên phải là phía sau của căn nhà 401. Sân cỏ là sân trước căn nhà của chúng tôi. Hình bên dưới là căn nhà 403 của chúng tôi).

Chúng tôi mua căn nhà (đang ở hiện nay) đã gần 6 năm. Trong khu vực MH này, có 1 số nhà do chủ nhà mua và chỉ thuê đất, có 1 số MH do chủ đất mua và install, rồi cho thuê. Từ MH với 1 phòng đến 2 phòng, và ngay cả 3 hay 4 phòng đều thấy ở đây.
  Căn nhà chúng tôi có 2 phòng ngủ + 2 full bathroom + phòng khách, bếp, giặt sấy. Thường thì nhà nào cũng có deck trước và sau. Parking đủ chỗ cho 3 xe. Có sân. Có ít đất để trồng hoa, có thể làm giàn bầu, mướp - trồng rau trái.

Số phận căn nhà sát tôi, 401, khá long đong. Qua gần 6 năm ở đây, tôi chứng kiến những cảnh đến + đi liên quan căn nhà đó. Họ thuê nhà với nhu cầu ngắn hạn, rồi ra đi. Long đong vì, mỗi lần khách rời đi, thì office lại phải tu-bổ nhà, cửa. Tuy ở sát bên, nhưng cuộc sống biệt lập, ít tiếp xúc, chuyện trò. Đa số người khác thuê là “da màu” (African - American).

Khoảng 3 tháng trước, office cho “đại tu bổ”, khiến căn 401 trông như “mới”. Thì ra đã có người muốn mua căn nhà này - với yêu cầu tu bổ, thay thế, hầu như toàn bộ.
  Lady Mỹ trắng mua căn nhà trên (chỉ trả tiền thuê đất), các tiện nghi như nước, điện, v.v… sẽ tùy theo mức độ dùng mà trả cho provider.

Nhà số 401 là loại 3 phòng ngủ, sân rộng. Parking rộng. Bà ta đã dọn đến ở đã 2 tháng nay. Sống độc thân.

Dù không chú tâm, tôi vẫn thấy bà ta lái chiếc Pathfinder (không rõ Toyota hay Nissan) đi về mỗi ngày. Tôi đoán bà ta chưa đến tuổi về hưu (ít nhất 62), nên còn đi làm.
  Mỗi sáng sớm, lady dắt chó (bà ta có 2 con chó, 1 loại khá lớn, 1 loại nhỏ) ra khỏi nhà, quanh quẩn mươi lăm phút, rồi đem về, nhốt chó trong nhà, rồi đi làm.

Tôi cũng dậy sớm mỗi sáng, ra deck trước nhà, uống cà-phê, trà. Bà Mỹ hàng xóm là người hàng xóm đầu tiên và duy nhất thường gặp và trao đổi đôi câu chào hỏi với tôi. Deck trước này, tôi đã cho làm rộng gấp đôi so với tất cả deck nhà khác. Tôi cho làm mái, tránh mưa nắng. 1 sô-pha, ghế, bàn, ít cây cảnh để sáng chiều ra đây “an phận tuổi già”.
  Bà Mỹ trắng hay gặp tôi, vì bà hay ra khỏi nhà từ cửa + deck sau nhà bà. Nghĩa là đi vào sân trước nhà tôi. Ngang trước mặt tôi.

Thế rồi khoảng 3 tuần trước, bà Mỹ không còn lái xe. Không rõ xe hư phải đem sửa hay vì lý do nào khác. Nhưng điều rõ ràng là bà không đi làm như trước.
  Vẫn dắt chó vệ sinh mỗi sáng, rồi về nhà. Không thấy xuất hiện thêm vào những dịp khác. Tôi nghĩ, hoặc bà có bệnh nên đang nghỉ bệnh. Và về xe, chắc có liên quan bệnh tình mà bà tạm ngưng lái xe.

Câu chuyện về bà Mỹ hàng xóm đã được tôi viết từ hôm qua. 2 lần dang dở, viết rồi xóa. Chuyện “sinh tử” bây giờ cứ “xoèn xoẹt” thay đổi, gay cấn mỗi ngày. Chuyện Mỹ, chuyện Ukraine-Nga, chuyện VN, v.v… được nói đến, bàn luận tưng bừng. Tin mới nhất! Tin mới nhất! Tin mới nhất! Vợ tôi, trước mặt là TV (bình luận sôi nổi), trên bàn nhỏ sát bên là ipad với chương trình NV, còn trên tay thì iphone được xem lướt FB. Cả 3 thứ âm thanh “tranh giành” nhau.

Tôi tự hỏi : mình có nên tiếp tục nói về bà Mỹ hàng xóm không?

Thế là tôi bắt đầu viết lại. Mượn câu chuyện bà hàng xóm chỉ là muốn nói lên việc sinh hoạt của chính mình. Có quan trọng hay không, không hoàn toàn là “chuyện người”. Mà còn phải đưa chính mình vào trong đó. Sinh hoạt của ta, suy nghĩ của ta, lòng ta!

Khoảng 2 tuần trước, vào buổi sáng, tôi đang tỉa lá sâu cho đám hồng phía trước nhà, thì 1 ông già người Mỹ từ căn nhà số 401 đến nói chuyện với tôi.
  Thấy ông có vẻ còn mạnh khỏe hơn tôi, nên tôi hỏi thẳng : “chắc ông không già hơn tôi?”. Ông bảo, đã 82 kể từ Feb. năm nay (2022). Tôi cười, bảo rằng chúng ta cùng tuổi. Ông cho biết tên, Howard.
  Tôi chưa kịp hỏi ông về lady hàng xóm trên (cùng từ căn nhà 401), ông đã cho biết bà này là cháu ruột ông (niece). Hay rõ hơn, ông là uncle của bà. Thì bà này cũng từ cửa sau, qua trước sân nhà tôi và tiến đến. Cả 2 chú cháu đều bắt tay tôi trước khi chú chở cháu đi chợ (với chiếc xe Lexus 4 chỗ ngồi, còn mới toanh). Có lẽ vì lý do riêng nên lady không lái xe. Xe của bà chắc gửi tại nhà chú.
  Xế trưa, xe chở 2 chú cháu đi chợ về, không đậu phía trước, mà chạy vào sân nhà tôi, tiến sát deck sau của nhà bà Mỹ.

Ông già cho biết mình ở xa, phải về ngay, sau khi thăm và giúp đỡ cháu ít việc. Vẫy tay chào tôi.

Sáng hôm qua, khoảng 9AM, có 2 xe police đến đậu trước căn nhà 401 trên. Họ dò hỏi về người ở nhà này. Từ cửa trước, họ đi quanh về phía cửa sau, tìm cách đột nhập.
  Tôi đang ở tại deck trước nhà. Họ hỏi tôi biết gì về bà hàng xóm không. Tôi cho họ biết chuyện 2 tuần trước với sự thăm viếng của người chú, và nhấn mạnh rằng đã hơn 5 ngày qua, tôi không thấy có sự xuất hiện của bà Mỹ như thường ngày.
  Đèn nhà bà vẫn sáng ngày, đêm.
Cuối cùng police vào được từ cửa sau. Một police cho tôi biết bà ấy đã qua đời khoảng tuần trước.
(Stone Mountain GA - May 29, 2022)
-------------------------------------------------

39. MÂY TRẮNG CHÓ XANH
… là chữ Nôm dịch từ thành-ngữ Hán-Việt “Bạch Vân Thương Cẩu”.

Tôi thấy lấn cấn với việc gọi mấy chữ trên là “thành ngữ”, vội lên online. Rõ là mình dốt thật! Có điều giải-thích theo “bách khoa toàn thư”, thì “nhan nhản” thành-ngữ trong văn chương, trong mọi sinh hoạt con người. Tôi không đồng ý lắm!

Tháng 5/2022 trôi qua. Tôi tưởng đã giữ im lặng kể từ bài viết sau hết của tháng 4/2022 (bài “Chuông hồi kim cổ”, April 25). Bên cạnh sự im lặng là chút “khó chịu” thân-thể của tuổi già. Tôi đã nghĩ đến cảnh chia tay với FB. Dù bất ổn về thể xác, nhưng lòng tôi vẫn “bình an”. Tôi muốn dành thì giờ còn lại để viết những thứ mà một tín-đồ Cơ đốc nên viết, khi nó được ban cho cơ hội học hỏi về nền thần học của tôn giáo này.

Một số bài tôi viết đôi khi lan man đề cập những điểm, điều có vẻ không thích hợp trên FB. Thật tình, mục tiêu chính - dù trên FB cá nhân - chỉ là ghi lại cho cá nhân tôi, kiểu như nhật ký, ghi nhận để tham khảo khi đọc lại, chút bày tỏ khi có chút mất cân bằng của tâm tư, … rất đa dạng.

Bài viết vừa rồi “Bà Mỹ hàng xóm” nguyên là muốn xuyên qua đó - trả lời và cảm ơn những bạn …Họ quan tâm đến sự “im lặng” cả tháng của tôi. Họ gửi message hỏi han. Và tôi đã trả lời họ.

Trở lại đề tài “mây trắng chó xanh”. Chỉ để bổ-túc bài viết cuối tháng 4/2022 (Chuông hồi kim cổ). Vì qua câu thơ (có “chuông hồi kim cổ” đi sau “sóng lớp phế hưng coi đã rộn”), ta thấy mình trải qua bao cảnh “tang điền thương hải”, qua nửa thế kỷ từ sau 1975, thì làm sao “dửng dưng” được “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc tuy mượn ý của Đỗ Phủ trong “Khả Thán” : “Thiên thượng phù vân như bạch y - Tư tu cải biến như thương cẩu” (Trên trời mây lơ lửng như áo trắng - Bổng chốc biến đổi như chó xanh).
  Ôn Như Hầu chỉ mượn mỗi câu một chữ. Chữ “vân” và chữ “cẩu”. Chỉ dùng nói lên 1 suy nghĩ riêng. Chúng ta phải đọc cả 2 câu của ông : “Lò cừ nung nấu sự đời - Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”. Câu sau chỉ nói lên ý “phụ”, khác với ý của Đỗ Phủ.

Cho nên tôi dùng “mây trắng chó xanh” theo ý của Đỗ Phủ. Là nói lên 1 tâm sự. Và rất nhiều người cùng có tâm sự này - nhất là các bạn cùng lứa. Vẫn không thể chia xẻ cùng ai. Lòng vẫn cô đơn, vì vậy. Tôi tôn trọng những đàn anh đã câm nín suốt một chiều dài của nửa thế kỷ. Có 1 số người không chịu im lặng, họ cho ra những hồi ức. Tôi cũng tôn trọng những người này. Số này vẫn là số ít.

Thì khi đưa bài viết “Bà Mỹ hàng xóm” lên FB, tôi cũng đã vô tình gom cả 3 bài : “Chuông hồi kim cổ - Bà Mỹ hàng xóm - Mây trắng chó xanh” để nói lên sự cô đơn, tịch mịch của con người.
  Dĩ nhiên có những người luôn hi ha, không bao giờ than buồn. Những bài viết này loại trừ họ.

“Chuyện đời đã chán không buồn nhắc”, nhưng tôi vẫn nhắc. Tôi không như Vương Sĩ Trinh (đời Thanh, Trung Hoa). Ai thích Vương Sĩ Trinh thì tôi xin chép tặng :

“Cô vọng ngôn chi cô thính chi
“Đậu bằng qua giá vũ như ti
“Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
“Ái thính thu phần quỷ xướng thi “”

Bài dịch (không nhớ dịch giả) :

“Nói láo mà chơi nghe láo chơi
“Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi
“Chuyện đời đã chán không buồn nhắc
“Thơ thẩn nghe ma kể mấy lời “”

(Vương Sĩ Trinh viết “thất ngôn tứ tuyệt “ trên cho phần kết của “Liêu Trai Chí Dị”, tác giả Bồ Tùng Linh)

(Stone Mountain GA - May 31, 2022)
----------------------------------------

40. NHANG ĐÈN
“Nhang đèn” là tiếng Nôm của từ Hán-Việt “hương hỏa”. Ở đây tôi chỉ muốn đề cập đến những thứ dùng cho việc tế-tự ông bà, tổ tiên. Từ nghĩa đen của “hương hỏa” đi đến “di sản”, mọi hình thức từ vật chất đến tinh thần mà tổ tiên để lại cho con cháu.

Phần dòng họ tôi, thì về vật chất theo trực hệ đến tôi - từ lâu đã chẳng còn gì, có gì. Gia phả họ Trần Công tôi có từ giữa thế kỷ 16, khi Đời thứ nhất theo Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam.

Tôi thuộc đời thứ 10 của dòng họ Trần chúng tôi. Tôi nghĩ rằng những dòng họ khác cũng có truyền thống như thế. Vật chất thì chắc khó có dòng họ nào - từ bao nhiêu đời trước, đã từng “giàu có, huy hoàng” - còn chút gì để lại đến nay cho con cháu họ.
  Vậy, truyền đời - e chỉ nặng về giá trị tinh thần.

Di tích xưa, như lăng tẩm, đền thờ, càng lâu đời càng giá trị. Sách xưa, lời xưa, có đọc mới thấy lòng bồi hồi.
  Khoảng 7 năm trước, tôi có thì giờ đọc sách. Tôi đọc những sách của Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ : Anh hùng Lĩnh Nam - Động Đình Hồ ngoại sử - Cẩm Khê di hận, v.v… Đọc những bài ông viết về những chuyến đi Trung quốc của ông. Ông đã tìm đến Động Đình Hồ. Tìm gặp con cháu của Trần Di Ái, v.v…
  Mới biết trong số hơn 70 tướng của Hai Bà Trưng, đã có 2/3  là nữ tướng. Nữ tướng Phật Nguyệt chỉ huy quân Nam tại hồ Động Đình đã làm kinh hoàng Hán-quân. Biết bao là anh hùng, mở đầu công nguyên có 2 Bà Trưng (40 sau CN). Dù hơn 900 năm dưới ách quân Tàu, luôn có những cuộc nổi dậy CHỐNG NGOẠI X M. Rồi Ngô (Vương) Quyền, rồi Đinh, Lê, Lý, Trần, (Hậu) Lê, Nguyễn…

Gia phả họ Trần chúng tôi viết bằng chữ Hán, mãi đến năm 1927 mới được dịch ra quốc-ngữ (chữ Việt như hiện nay), và được cập nhật cho đến bây giờ.
  Lúc nhỏ, trên 70 năm trước, tôi đã say mê đọc gia phả họ tôi. Rất sùng kính. Và 50 năm trước, bác ruột tôi đã biên soạn kỹ càng, và cho in để phổ biến cho con cháu.
  Dù thăng trầm, dù di chuyển qua bao không-gian + thời-gian, thì hôm nay trước mắt tôi vẫn là cuốn gia phả họ mình (được in năm 1974). Tôi vẫn trân trọng lưu giữ.

Một em họ tôi, lại chịu khó cập nhật tin tức con cháu họ Trần khắp nơi (trong, ngoài nước) và cho in số lượng nhiều, gửi mọi nơi (cho con cháu) - thực hiện năm 2003. Rất quý hóa. Cô ấy năm nay 87, còn sống khỏe mạnh tại Pháp. (Cảm ơn Kitty Tran thanh Khanh Tương, nếu có đọc những dòng này).

Thế hệ bọn tôi nói chung luôn “hoài cổ”, dù tôn giáo nào, lòng bao giờ cũng nhớ về tổ tiên. Tôi là một tín đồ Cơ-đốc. Điều thứ 5 trong 10 điều răn, dạy phải hiếu kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
  Tôi luôn đọc lại gia phả, luôn suy gẫm, luôn tìm hiểu quá trình các bậc sinh thành của mình. Thầm suy niệm, nhớ ơn.

Thế hệ tiếp nối - cũng là thế hệ con, cháu tôi - hình như ít đoái hoài như thế hệ trước (tôi có nhận xét như vậy). Cũng đúng thôi. Vật chất và tinh thần - có người cho rằng chúng hỗ-tương, nhưng tôi thì nghĩ rằng chúng ở thế đối nghịch.

Giới trẻ ở trong nước, tôi không muốn đề cập, vì rằng với nền giáo-dục trên nền tảng “vô thần thuyết” của chủ nghĩa cộng sản, thì hậu quả không cần luận bàn.
  Con cái chúng tôi trong cuộc sống ở nước ngoài - cũng không khá hơn. Thừa mứa vật chất. Hội nhập với sinh hoạt mới, khung cảnh mới. Người nước ngoài, ngôn ngữ lạ. Chuyện dài trong gia đình giữa cha mẹ và con cái đã trở thành thứ “một ngàn lẻ một”.

Có những đứa con không biết tên ông nội chúng, dù cuốn gia phả được in và giao tận tay chúng.

“Ta Về”? Trở về làm chi, Tô Thùy Yên?

“Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa
“Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
“Ai đó trong hồn ta thổn thức
“Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi “”

Tôi của tôi ơi! Tàu sắp đến. Thổn thức đã nhiều rồi, nhiều lần rồi. Nền cũ đã biến mất, một chút nuối tiếc của Bà Huyện Thanh Quan rằng “nền cũ lâu đài bóng tịch dương” cũng không có.
  Các bạn cùng lứa với tôi có hiểu tôi muốn nói gì?
  Các bạn mà không cùng “thổn thức” với tôi, với Đinh Thành Tiên, thì chúng tôi “cô đơn” lắm!

(Stone Mountain GA - June 10, 2022)
-----------------------------------

41. GÃY SÚNG
Cũng không phải mãi đến ngày 30/4/1975, khi Tổng Thống “ít hôm” Dương Văn Minh tuyên bố “đầu hàng”, quân nhân các cấp của QLVNCH mới buông súng.

“Tinh thần” bỏ súng đã có, khi Ban-mê-thuột mất. Có từ thượng tầng. Không hiểu sao, tinh thần này lại bắt nguồn từ vị lãnh đạo cao nhất của VNCH. Không có câu trả lời chính xác.
  “Tinh thần” bỏ súng hẳn đã có với Cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, khi sơ khởi, ông là người đầu tiên biết rằng Mỹ sẽ bỏ Miền Nam VN - nghĩa là khi Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu của họ.

Vậy thì cuộc chiến tại Miền Nam VN những năm 71-75, quân nhân cấp dưới lăn lộn, quyết đấu, hy sinh … chỉ là “đơn giản” dưới cái nhìn ái ngại từ thế lực bên kia Thái Bình Dương, và dưới tâm tư “dằn vặt” của vị Tổng Tư Lệnh QLVNCH. Ông đã thấy được hậu quả của chiến lược Mỹ thay đổi.

“Nhìn ái ngại”, khi dùng mấy chữ này, tôi đã thầm cảm ơn một nhóm người Mỹ “thiện tâm”. Họ cũng thương cho số phận VN. Mà không phải là tất cả. Cả 1 đa số + những kẻ biểu tình “phản chiến” tại Mỹ đã không chút thương tiếc chi dân VN, quân sĩ QLVNCH. Không những thế, họ còn “nguyền rủa”, trách móc cuộc chiến đó đã lấy đi sinh mạng của gần 6 vạn người thân của họ.

 An Lộc, Kontum, Cổ Thành Quảng Trị. Bao nhiêu ngày đêm giành giựt từng tấc đất. Từng tấc Cổ Thành Quảng Trị đổi lấy bao nhiêu sinh mạng người lính VNCH. Kontum kiêu hùng, Nguyễn Đình Bảo với Charlie, với bài hát để đời cho người ở lại.

Hơn 1 tuần tại Bình Tuy, tôi chỉ gặp Đại úy Triệu, thuộc Ty ANQĐ. Chúng tôi biết nhau khi cùng làm việc tại Quảng Ngãi những năm trước.. Những ngày đầu tại Bình Tuy, tôi vào Tiểu Khu mà “không gặp” những giới chức cần thiết. Gặp Triệu loanh quanh trong sân Tiểu Khu. Đương sự nhìn ra tôi và gọi tên tôi. Triệu cho biết Phòng Tổng Quản Trị tạm đóng cửa. Vì không còn ai.

Tôi nhờ Triệu chở tôi đến Trung Tâm Hành Chánh Tiếp Vận của Tiểu Khu để nhận lương. Tôi chưa có lương từ 1/1975. Lương và hồ sơ cá nhân “chạy” không kịp tôi. Tôi ăn lương Tỉnh Quảng Ngãi. Rời Quảng Ngãi, trình diện Bộ Nội Vụ đầu tiên, thì lương chuyển về BNV. Tiếp, trình diện Bộ Quốc Phòng, lương chạy theo. Về Bộ Tổng Tham Mưu, lương chạy nước rút. Về Quân đoàn / Quân khu III, chờ hơn 1 tháng ở đây, lương chưa tới. Về Tiểu Khu Bình Tuy, hỏi thử. Chắc là lương “mắc đổ xăng”, nhưng câu trả lời “hiệu quả” nhất chính là, doanh trại TTHCTV đóng cửa kín mít (Hỏi 1 số quân nhân quen Triệu, còn thơ thẩn quanh Tiểu Khu, nhiều người trong họ còn chưa nhận lương tháng 3/1975 - nói gì tháng 4/75).

Tôi ở tạm với Triệu ít ngày tại căn phòng thuê (chỉ có 2 anh em Triệu). Triệu báo tôi biết, sẽ trả nhà trong 2 ngày tới. Chắc 2 anh em Triệu sẽ rời theo đường biển, khi trả nhà xong.
  Triệu cho biết tuần trước, dân + lính chạy loạn về Bình Tuy cả hàng trăm ngàn người. Có Tướng Nhựt (SĐ 2 BB), Tướng Tất (BĐQ). Đủ mặt các cấp lớn. Triệu chở tôi xuống chỗ đóng quân của các đơn vị trên.
  Tôi gặp Thiếu úy Thứ, làm việc tại BCH/BĐQ/V1CT, trước kia là Trung sĩ Tiếp liệu dưới quyền tôi, khi cùng ở BCH/B20/LLĐBVN. Thứ di tản từ Đà Nẵng, đem theo được chiếc Honda dame. Tàu hải quân chuẩn bị bốc người về Vũng Tàu. Người còn bị giới hạn, huống chi vật dụng đem theo. Lệnh mới : chỉ người - mọi vật dụng đều bỏ lại.
  Thấy tôi, Thứ mừng quá. Thứ giao xe cho tôi + mọi giấy chủ quyền. Nếu còn gặp lại, thì tôi giao xe. Nếu không, tôi toàn quyền. Tôi cho Thứ biết địa chỉ của tôi ở Sài Gòn. Thế là chia tay.

Hôm sau, tàu và người đã rời Bình Tuy. Có tin Hàm Tân đã bị địch chiếm. Tôi đã rời nhà Triệu thuê và không còn thấy anh em Triệu. Chắc đã theo ghe về Vũng Tàu. Tôi đến ở nhà của A-Tỷ, một “lính kiểng” của XXX, là thương gia buôn đồ biển, mà Triệu giới thiệu cho tôi vài ngày trước. Nhà ở sát bờ biển.

Người người ào ạt đổ về bờ biển Bình Tuy, đón ghe về Vũng Tàu. Tôi đổ đầy xăng (chỗ quen của A-Tỷ) cho xe Honda, chở A-Tỷ chạy dọc bờ biển đến 1 địa điểm khá vắng, kín đáo.
  A-Tỷ đã thuê sẵn thuyền máy, đồ đạc đã được chất sẵn. Thuyền chỉ có khoảng 10 người. Thuyền máy đến Phước Hải, Vũng Tàu rất an toàn, ít ngày sau. Ở lại Phước Hải qua đêm tại nhà bà con của A-Tỷ. Làng chài này đại đa số là công giáo, cũng rục rịch. Sau này tôi mới biết, cả làng chài này vượt biển 90%.

A-Tỷ chở tôi. Hành trang gọn, nhẹ. Mọi thứ khác của A-Tỷ để lại tại Phước Hải (cũng là 1 địa điểm buôn bán đồ biển của A-Tỷ). Chúng tôi đều mặc dân-phục. Nhiều trạm xét, nhưng cả 2 đều đủ giấy tờ hợp lệ.
  Tôi ghé qua căn vườn tại cây số 74.5 mà tôi đã mua năm ngoái, hiện do cha mẹ vợ coi sóc. Hỏi thăm tình hình. Đoạn tiếp tục chạy về Sài Gòn.
  Đưa A-Tỷ đến nhà tại Quận 5, tôi về nhà tại Quận Phú Nhuận. Đã là ngày 21/4/1975. Mệt quá, nghỉ ngơi, và ngủ vùi. Gần 4 tháng qua, tôi chưa nhận đơn vị, quân trang quân dụng.

Hôm sau, tôi vội đến nhà bạn thân, Lê Hữu Cương. Cương có nhiều bạn tại Sài Gòn. Chúng tôi cùng nhau đi thăm hỏi tình hình. Hình như Tổng Thống Thiệu vừa từ chức.
  Quanh qua La Pagode, Brodard, trước Quốc Hội, trước Caravelle, từng nhóm người lớn tiếng bàn thời sự. Công khai chỉ trích chính quyền, các nhân vật cao cấp, …

Tôi tìm Đức (là Phạm Đức, con ông Phạm Tự - Ty trưởng Nội an Quảng Ngãi). Tôi trước rất thân với gia đình này. Đức đã cho tôi biết chỗ làm việc. Chúng tôi vẫn duy trì liên lạc, sau khi Đức rời Quảng Ngãi 3 năm trước (Thụ huấn học viện CSQG - ra trường - làm tại phi trường TSN).
  Bây giờ là 24/4/1975. Thiên hạ quanh tôi đều chú tâm một việc : làm sao ra nước ngoài. Gặp Đức, biết rõ chương trình ít ngày tới. Vợ chưa cưới của Đức là Tiếp viên hàng không VN (thật ra, gia đình có cổ phần - là Giám đốc đoàn). Cả 2 đều có thể rời VN bất kỳ lúc nào, kể từ hôm nay. Tôi nói ý định mình. Đức và vợ chỉ offer tôi 4 chỗ. Thời gian để quyết định là từ 25-27/4/1975. Chỉ trong 3 ngày này, 4 người trong gia đình tôi có thể rời VN.

Chiều tối 25, Đức đến nhà tôi. 2 vợ chồng Đức sẵn sàng rời tối nay, nếu tôi quyết định. Tôi cho Đức biết, nhà tôi có 7 người : 2 vợ chồng + 5 con, biết ai đi ai ở lại đây? Đức ra về, hẹn chiều mai.
  Vợ tôi thúc giục tôi đi 1 mình. Bà không nỡ xa con, dù bất kỳ đứa nào. Thế là trong ngày, tôi đi đổi lấy ít đô la Mỹ (chỉ khoảng 100 USD bằng tiền lẻ 5$, 10$, 20$), ít vật dụng vừa chỗ chiếc samsonite xách tay nhỏ.
  Đức lại đến, xẩm tối 26. Rồi tôi lại đổi ý định. Đức bảo chỉ sẽ chờ đến trưa mai. Nếu tôi không đúng hẹn, thì vợ chồng Đức sẽ rời tối đó.

Đức và vợ rời VN đêm 27/4/1975. Cùng ngày này, Cương và tôi chạy tìm phương tiện, đủ chỗ cho cả 2 gia đình. Lần lượt 2 ngày sau, chúng tôi kiếm mọi nơi, nhưng thất bại.

Thế là sau 30/4/1975, 2 đứa tôi : - 1 Cương thương-phế-binh đã giải ngũ, đã trả súng – và tôi, 1 quân nhân chưa được đơn vị nhận, chưa được giao súng, thì súng đã gãy rồi. Đón chúng tôi, chỉ là trại giam khổng lồ trên cả nước VN, từ Nam chí Bắc, từ Cà Mau đến biên giới Việt-Trung.

Tôi vẫn còn nhớ việc Thứ và chiếc xe Honda. Giao giấy tờ xe cho vợ và dặn, khi nào Thứ hay người được Thứ viết giấy xác-nhận hẳn hoi, nếu đến thì giao xe. Vài ngày trước khi đi trình diện “học tập cải tạo”, thì Thứ đến. Ra đầu ngõ, Thứ mời tôi “ly sâm bổ lường”. Rồi chia tay.
Kỷ-niệm thứ 47, ngày “súng gãy”!

(Stone Mountain GA - April 18, 2022)
-------------------------------------

42. NỖI VÀ NIỀM
Từ điển Hán-Việt không có chữ “Niềm”. Và không có chữ “Nỗi” theo nghĩa như thường có (nỗi đau, nỗi buồn …) - chỉ có NỖI = sự đói (nỗi khí = chết đói).
  Search trên online, chỉ thấy được đề cập “nỗi đau, nỗi buồn, v.v…) và “niềm tin, niềm hy vọng, niềm vui, v.v…). Một phía (Nỗi) chỉ là khuynh hướng bi quan, tiêu cực) - một phía (Niềm) chỉ là lạc quan, tích cực). Tôi không đồng ý.                                                                                

PHIẾM LUẬN
(1) NỖI
a/ Khuynh hướng tiêu cực, bi quan : nỗi buồn đau, nỗi giận, nỗi nhớ, nỗi hận, v.v…. Rất thông thường, chúng ta không cần đi sâu về mục này.
b/ Khuynh hướng tích cực, lạc quan - Chúng ta cũng nghe nói : nỗi vui, mừng - nỗi hân hoan, nỗi sung sướng - nỗi nghẹn ngào (đến bất chợt, cảm xúc cao độ, khó diễn tả bằng lời nói hay hành động khác, …)

Vậy thì online không giúp tôi biết rõ thêm về đặc tính của “nỗi”. Chỉ là một “từ” đứng trước 1 “từ” khác để cùng tạo thành 1 danh từ (trừu tượng), không khác gì “con” (sông), “cái” (bánh), “chiếc” (thuyền), v.v…

(2) NIỀM
a/ Tích cực, lạc quan : niềm vui, niềm hân hoan, v.v… Rất thường nghe.
b/ Tiêu cực, bi quan - Cũng vẫn thấy nói đến : niềm đau, niềm nhớ tiếc, v.v…

Nghĩa là “Niềm” hay “Nỗi” cũng đều thể hiện cả 2 mặt tích cực + tiêu cực - lạc quan + bi quan.

HỒI TƯỞNG VÀ CẢM NHẬN

Ta nghe có bài hát với câu “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, dễ có niềm vui như thế sao? Để chọn (như đi chợ chọn thức ăn, vật dụng)? Nếu dễ dàng như vậy, ai tìm nỗi buồn làm chi cho “ruột héo”, cho “tim teo”?

Tự nó đến. Không mong mà nó cứ tự nhiên mà tìm đến ta. Vậy mới có “nỗi buồn vô cớ”.

Không mong mà được. “Hôm nay hội ngộ gió tình cờ”, vì “Nắng lâu gặp được mưa tươi - Ở nơi làng lạ gặp người cố tri”.

(3) TÔI TÌM LẠI
Dĩ nhiên cái đã trôi qua cùng thời gian, đã mất hẳn. Làm sao tìm lại được? Nhưng tôi vẫn hướng về, ôm ấp lại cảm giác, cảm xúc ban đầu. Nhiều người cũng có cách suy nghĩ, cách làm như tôi. Vì tôi cũng muốn bắt chước vua Tự Đức : “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng - Xếp tàn y lại để dành hơi”

Từng bước từ mới nhất đến lui về “chân trời cũ” - như của Hồ Dzếnh. Viết bài này, tôi cũng gọi nó 1 phần là “phiếm luận”, 1 phần là “hồi ức”, 1 phần là “tùy bút”.

Nỗi vui chợt đến, khi tôi sau những lần hụt các chuyến bay từ VN về lại Mỹ vào 3/2020 (bị hủy bỏ) khi dịch COVID-19 lên cao điểm, đón được máy bay Qatar, qua nước này, đi London, về Chicago, cuối cùng đến Atlanta giữa tháng 4/2020. Mọi sự an toàn. Không chút nhiễm bệnh. Không gặp những thủ tục phiền phức.

Niềm vui có được, khi mới nghỉ hưu, về với căn nhà mới xây tại Thạnh Mỹ, Đơn Dương, Đà Lạt (2010). Chuỗi ngày ở đây, có lại sự thanh bình bên ngoài, và sự bình an bên trong. Cảm ơn Hội thánh Trưởng Lão Thạnh Mỹ.

Lòng hân hoan từ niềm vui đến được đất Mỹ. Thật sự đời sống vật chất và tinh thần có được sự tự do. Niềm ao ước, nỗi mừng có từ chỗ “thấp” của thân phận người “thua cuộc” với những bất hạnh của nó - sẽ triển khai phần sau (MUỐN QUÊN ĐI).

Còn niềm vui nào lớn hơn, khi thỏa chí. Chọn cho mình con đường thích hợp - hội đủ nhu cầu vật chất + là lý tưởng mà tôi ao ước về mặt tinh thần. Cuối 1959, đầu 1960 là khởi điểm cuộc đời tôi. Sẽ không thay đổi quyết định nếu thời gian có lùi lại 62 năm trước.
  “Xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Làm sao không vui được? Làm sao không hãnh diện? “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa - Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”, quá oai hùng đi chứ!
  Là “vàng son” phải ôm ấp. “Vàng son” với tất cả ý nghĩa mà từ ngữ này có. 16 năm không phải sống trong “hoang tưởng”. Là thật, dù là “máu và nước mắt”

Từ phần vừa rồi trở về trước, là thời học sinh. Là lúc ấu thời. Không có vui, buồn quá lớn. Lại còn quá lâu, sẽ không nhớ được hết. Sẽ không đề cập các thời điểm đó vào bài viết này.

(4) MUỐN QUÊN ĐI
Chỉ là cách nói “giận lẫy”. Có một bài viết, tâm sự của 1 người bạn lớn tuổi viết rằng “Chỉ là đau buồn và tủi nhục, không phải là kỷ niệm”. Oán hận thì nói vậy, thật ra thảy đều là những kỷ niệm - vui có, buồn có.
  Ngược với phần TÔI TÌM LẠI, trong phần này, tôi sẽ bắt đầu từ thuở xa xưa.

Một ý ở trên của tôi muốn phớt lờ qua 2 thời điểm : ấu thời và thuở học sinh. Xin lỗi vì sự đổi thay như “chong chóng” của tôi chỉ mới “nửa gang tay” (của đoạn viết - không phải 1 phần lớn của cuộc đời tôi) khi tôi “muốn quên đi” mà “không quên được”, và nhắc lại ở đây.

Thật đói. Là cuối 1944, đầu 1945. Phải về quê ngoại (làng Hạc) để được “cứu đói”. Các cậu, dì có điều kiện khá hơn. Nhưng chỉ là khoai với sắn (chỗ khác gọi là “mì”). Thời điểm này chị tôi và tôi thường đi mót lúa. Cả ngày được 1 lon lúa là gia đình “no” rồi. Muốn quên mà không quên được.

Thời học sinh, luôn thiếu thốn. 1954-1955, là dấu ấn “cay đắng” nhất của thuở học trò. Thiếu điều bỏ học, đã tính theo bạn đi làm nông, cày ruộng làm vườn. Chỉ nhờ 1 ý chí khát khao việc học mà tôi giữ được mình. Đã vươn lên và qua khỏi lúc khốn cùng. Cũng là “muốn quên” mà không thể quên - hàn vi một thuở.

Muốn quên mà không thể quên, là mối “tủi nhục”. Tôi lái xe Honda theo đoàn dân đông đảo, bám theo những chiếc xe tăng của các chiến sĩ “bên thắng cuộc”. Nước giải khát, bánh trái, thuốc hút, v.v… được ném lên cho các chiến sĩ!
  Tôi không thể, cũng như không muốn viết dài phần này. Thật tình muốn quên phức đi. Nó như chiếc kim cứ đâm nhức nhối vào tim ta. Thì làm sao quên được?

Dù tù đày, dù là cay đắng vất vả, dù là lâu dài “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Dù là “đương quân hoài quy nhật - thị thiếp đoạn trường thì”. Của cả 9 năm, cũng không bằng ngày hôm ấy, 1/5/1975.

(Stone Mountain GA - June 14, 2022)
------------------------------
 
 43. BẮT ĐẦU
Mới đưa ý định viết bài với chủ đề trên, thì người quen thân đã “phản pháo” : Thôi đi ông. Già rồi, tàu sắp đến đón mà còn “bắt đầu bắt đuôi” gì nữa?

Ai bắt đầu? Bắt đầu làm gì? Trong tình huống nào? Mục đích? … Nhiều câu hỏi được đặt ra.

Thấy mình già, dễ ức hiếp. Lùi lại 50 năm trước, thử coi! Đồng ý rằng, “vội vàng mà đến, rồi vội vã mà đi”, nhưng ta còn hơi thở, ắt còn sống. “Sự sống” là tiền-đề cho mọi sinh hoạt - trong đó có sự “BẮT ĐẦU”. Điều kiện “cần” có rồi (là tiền đề), thì những bước kế tiếp (điều kiện đủ) hẳn sẽ khiến “sự bắt đầu” thêm ý nghĩa, thêm giá trị.

Cậu bé trong “Tôi đi học” của Thanh Tịnh đang “bắt đầu”. “Con đường đã quen đi lại lắm lần …Lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng-bạc”. Sự bắt đầu không đòi hỏi “thế giới rung chuyển, vật hoán tinh di, tang điền biến thương hải”. Rất đơn giản, 1 thoáng trong lòng cậu bé, 1 cảm nhận của tâm tư.

Sự bắt đầu của tên nhóc nhà quê là, chuyến tàu lửa từ Hà Nội đi Nam, ghé từng chặng để đón “Thanh niên cứu quốc” cuối 1946 - cũng đã cho nó “quá giang”. Bắt đầu là vì, theo như lời mẹ cậu ta khi gặp lại nó sau 34 năm (1980) : “Nếu mà ngày ấy con không vào Nam, thì làm sao mà khốn khổ thế này?”.

Vào Nam, tên ngố đó “đổi đời”. Nó được ăn học, có sự nghiệp. Và rằng khi trả lời mẹ, cậu ta dứt khoát không hối hận (về chuyện vào Nam, 1946).

Sự bắt đầu còn được thể hiện 1 sớm mùa hạ (thời kỳ nghỉ hè của học sinh), thiếu niên 14 tuổi - đang là học sinh chuẩn bị lớp 4 ème cho niên khóa tới (tương đương lớp Đệ Ngũ trường Việt) - ngạc nhiên chứng kiến đoàn người công khai vác “cờ đỏ sao vàng” kéo ngang qua chỗ nó ở (là vùng quốc gia). Là tháng 8/1954, Huế.
 Học sinh này không bắt đầu, mà là hoạt cảnh, sinh khí trường học đã đang khác trước, “bắt đầu” những thay đổi lớn lao. “Bắt đầu” đó làm đất nước chuyển động, và Miền Nam VN tồn tại 20 năm.

Người người bắt đầu. Cả nước bắt đầu, nhưng “vận nước” không được phép. Gán ghép không thể vững chắc. “Phải phá, rồi lập”!

Hóa ra đời người luôn có những lúc “bắt đầu”. Dù rằng những bắt đầu mới nhiều khi lại bước lên đường mòn cũ, cùng những yếu tố của ngoại cảnh cũ, nội tâm cũ. Có điều, khi vui quá thì quên hết chuyện cũ, còn khi buồn chắc chắn có u hoài.

Họ ra đi để “bắt đầu” trở lại. Không gian rộng rãi hơn, để những khuynh hướng bớt va chạm. Hận lòng tạm để 1 bên, mưu sinh cho cá nhân và gia đình là tối cần thiết.
  Sớm thì 47 năm trước hay xa hơn - muộn thì khoảng 30 năm đến nay, từng lớp người bung ra tứ phương : Mỹ, Úc, Gia-Nã-Đại, Pháp, các nước khác tại châu  u … Hầu hết lại “bắt đầu”.
 Và tôi đang “bắt đầu” ở tuổi 80. Tôi “bắt đầu” một cuộc sống “Tĩnh”. Nếu ai có hỏi : ông “bắt đầu” như thế nào? Tùy đối tượng mà trả lời. Với cháu chắt, tôi “bắt đầu” gần gũi hơn. Đến với chúng bằng lời khuyên, khuyến khích, và những căn dặn khác.
  Còn hầu hết những đối tượng khác, đều trưởng thành, lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm. Kẻ lớn tuổi hơn tôi, chắc tôi “kính nhi viễn chi” mà không dám có ý kiến. Tôi “bắt đầu” dè dặt. Hiếm người “coi thường” chính mình. Trẻ hơn tôi - kể cả các con tôi và gia đình chúng - thường “tự phụ”. Cái gì cũng biết nhưng thực chất “không biết gì hết”. Đành sống phần tâm linh mà cầu nguyện cho họ - dĩ nhiên đường đời không tránh khỏi những vấp ngã - “đứng dậy được và tiếp tục bước đi”. Và đi tới.

Chính khi tôi còn sống, nên khái niệm “bắt đầu” vẫn duy trì. Có điều tôi đã chuyển đổi “chủ thể”. Tôi tin “hữu-thần-thuyết”. Tôi tin việc “siêu nhiên”. Tôi tin những niềm ao ước của tôi được Đấng tôi tin và giao phó, khiến trở thành hiện thực.

Đó là quê hương cũ (cố hương) của tôi được thanh bình. Đạo đức - ít nhất trở lại như hơn nửa thế kỷ trước. Phồn vinh. Không quên được hận thù, thì có thể giảm bớt được không?
  Đó là những “bắt đầu” đơn giản nhưng không dễ dàng!

(Stone Mountain GA - June 6, 2022)
-------------------------------------

44. DẪU LÌA NGÓ Ý CÒN VƯƠNG TƠ LÒNG
Muốn nói lên lòng tiếc nhớ của mình, tôi suy nghĩ mãi đề tựa nào thích hợp. “Nuối Tiếc” ư? “Tiếc” thường song hành với “Thương”, sao ta không chọn “Thương Tiếc”? Đây là 1 loại tình cảm - không lưu lại trước sau cùng 1 cường độ - tuy có vương vấn, miên man nhưng không nói lên được tính mạnh mẽ của ý chí, giận hờn. Hay phải dùng từ ngữ nào khác để thể hiện được 1 loại tình cảm?

Là thứ tình cảm có “độ dày”, không chỉ của riêng mình. Nhiều người cũng có giống vậy. Là hằng ngàn, hằng vạn. Cũng có thể là hàng triệu người nữa đó!

“Nhạc Vàng” xưa, “Miền Nam” xưa, QĐVNCH xưa, VNCH xưa, “quê” cũ, “nhà” cũ, “mái nhà” xưa … thì không chỉ mình tôi thốt ra lời tiếc nhớ. Chỉ trừ những ai “có mới nới cũ”. Hay những kẻ “đi dạng 2 chân”, thời nào cũng được, nơi nào cũng được, miễn là vật chất đủ, thừa.

Thành ngữ Hán-Việt “Ngẫu đoạn ti liên”, mà Nguyễn Du mượn để tả cảnh Kiều nhớ Thúc Sinh : “Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng”. “Ngó” là ngó sen (không phải là nhìn, ngó). Nghĩa của thành ngữ trên là : ngó sen tuy gãy, nhưng dây (tơ) còn vương.

Trước kia, khi đọc “Việt Nho” của Kim Định, tôi để ý đến 2 nghiệp : Đế và Hoàng. “Đế” là cướp bóc, xâm chiếm (đế quốc), là “bá đạo” - “Hoàng” là “vương đạo”, dùng Nhân để trị quốc.

Dân miền Bắc có khuynh hướng “nam tiến”. Miền Nam luôn bị xâm lăng. Tam Hoàng của Trung-hoa-sử, có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng. Hoàng Đế là vị vua lập truyền thuyết “Đế” (cướp). Ông lấy tên “Hoàng Đế” là muốn phối hợp 2 phép trị nước Hoàng (vương đạo) và Đế (bá đạo). Vậy các đời tiếp nối (Chuyên Húc, Cốc, Nghiêu, Thuấn) cùng với Hoàng Đế lập nên “Ngũ Đế”.

Miền Bắc thắng nhờ bạo lực, miền Nam thua nhưng khiến Bắc bị đồng-hóa bởi văn minh, văn hóa, đạo đức của mình.

Dài dòng như trên là ý tôi muốn nói, từ lịch sử (Trung Hoa và VN) qua hằng ngàn năm gần như cho 1 thông lệ : Bắc lấn Nam. Và điều này khiến ta có 1 suy tưởng : vận mệnh. “Vận nước mệnh trời”.

Hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người có cái buồn giống như nỗi buồn của tôi, là như “ngó sen” bị cắt đó, mà những tia tơ trắng vẫn còn “bịn rịn” níu kéo, tiếc cho sự cách chia. Phần ở lại thản nhiên, nhưng phần buộc phải rời bỏ luôn luyến tiếc.

Tôi loại trừ những người “bên thắng cuộc” khỏi số người trên. Tôi cũng loại trừ những kẻ biết rõ “thế chiến quốc”, nắm quyền trong tay - với kết quả miền Nam VN  ngả nghiêng, sụp đổ - họ đã không ít thì nhiều góp phần cho “cái chết” đau thương đó.

Tôi cũng loại trừ luôn những người, những tập thể đã âm thầm hay công khai giúp kẻ xâm lấn, dù với bất kỳ lý do nào. Và còn rất nhiều thành phần, cá nhân hay tổ chức mà cứu cánh của họ chỉ là vật chất, tiền tài và những vui thỏa riêng.

Họ là những người từng là cánh chim buộc lòng xa xứ, hết lần này đến lần khác. Vốn họ chỉ mong sống yên ổn với hạnh phúc bình thường. Kẻ cướp đã trắng trợn “vừa ăn cướp vừa la làng” vu cáo họ với tội của ông bà, cha mẹ. Tội sở hữu nhiều đất đai, từ “địa chủ” đến “đại điền chủ”, rồi “ác ôn”. Và những tội khác : phản động, …

Thái độ của Kiều có tính cách cá nhân. Mềm yếu, luôn nhượng bộ. Ý của thành ngữ Hán-Việt “ngẫu đoạn ti liên” cứng rắn hơn. Là tiếc nhớ trong tủi, hận. Đã làm hết sức mình nhưng “mệnh trời” không thể đối kháng, và “vận nước” buộc phải nổi trôi.

Họ buộc phải từ bỏ. Là “hải âu phi xứ”. Nhưng họ còn “tốt số”. Họ có điều kiện được ra nước ngoài, nơi không khí có lượng Oxy “tự do” nhiều hơn tại cố hương. Chỉ là số ít, chỉ vài triệu người.

Tôi muốn nghiêng mình trước 1 đại đa số khác “trầm lặng”. Không trầm lặng không được : họ thiếu mọi thứ. Sau khi mất nhà, mất đất - không thân với “bên thắng cuộc”, bị coi có liên hệ với “ngụy” - xếp ưu tiên trên 10, chỉ đứng trước NQNQ (ngụy quân ngụy quyền) trong công ăn việc làm, trong việc học hành của con cháu, thì họ thiếu nhiều cơ hội vươn mình. Không có điều kiện ra nước ngoài.
  Họ kém học nên nói không giỏi như nhiều kẻ “làm thiện nguyện” - những người này lén lút ôm vào túi “kết quả đại thành công”, là các món tiền khổng lồ.
  Họ không biết cách như tôi viết trên FB, trên email, viết sách “khoe khoang”.

Dĩ nhiên còn nhiều dạng người nữa được gom vào “tập hợp” của những ai khi có tấm lòng - chính mình hay chính đất nước miền Nam VN ngày xưa, của trước 47 năm tự coi như phần “ngó sen” bị cắt rời.

Người đàn bà nước Trần (Trung Hoa, thời Xuân Thu) còn khóc vì đánh mất chiếc trâm bằng cỏ bồng. Khóc vì “thiên đường” bị mất là điều đương nhiên, nhưng nhiều người trong số tôi nhấn mạnh ở trên, đã khóc vì quá khứ. Quá khứ không đơn giản là “tiến trình thời gian”, mà vì nó ôm theo nhiều bất đồng. Ai đã được, ai đã mất? Ai vui ai buồn?

Ngày nay, VN đã thống nhất. Lòng ai có uất ức, buồn tủi thì cứ việc. Lòng ai còn lưu luyến ngày cũ thì cứ việc. Còn tôi, đất nước phồn vinh, hay lại chúi mình trong khói lửa, thì tôi e không có cơ hội chứng kiến thêm. Vậy chỉ muốn nhìn thật xa, và mong cố hương có được những thành quả như đã nói trong các bài trước.

(Stone Mountain GA - June 8, 2022)
------------------------------------

45. MÓN NỢ KHÔNG TRẢ ĐƯỢC
Tôi thích bài hát “Tình Mùa Chinh Chiến” của Thục Vũ (Vũ Văn Sâm). Vị cựu Trung tá này cũng là “tù đi Bắc”, cùng 1 lượt với chúng tôi vào 3/1976. Có điều, ông “thích” Sơn La hơn, còn tôi thì - ngày xưa mê truyện Giặc Cái hay Nữ Tướng Miền Sơn Cước của Hoàng Ly với các vùng núi cao miền Bắc VN, có Phăng-Xi-Păng - chọn Lào Cai.

Tuổi già có cái thích-thú là, không vội “thức khuya dậy sớm” đi làm việc như những năm trước. Bất mãn với giấc mơ, thì dậy sớm chút đỉnh, khoảng 7:30 AM. Nếu tối qua lỡ thức hơi khuya, thì dậy trễ hơn, khoảng 8:30 AM. Dậy sớm hay trễ, cũng phải “đi bộ trên máy” đúng 20 phút. Rồi cà phê, rồi trà, rồi computer. “Yên sĩ phi lý thuần” (inspiration) nếu có, thì gỏ phím 1 bài. Chậm thì nửa ngày, nhanh thì 3 tiếng.

Lúc nào vào computer đều mở nhạc, đồng thời check FB, đồng thời viết bài, đồng thời đọc truyện … Computer thật nhiều chức năng, khiến tôi : tai nghe, mắt đọc, ngón tay gỏ phím …rất bận rộn.

Bài hát đang nghe “Tình Mùa Chinh Chiến” vốn được nghe rất sớm, khoảng 1962, 1963. Chuyện nữ thi sĩ Lệ Khánh với Thục Vũ thì bấy giờ (và lên online bất cứ lúc nào bây giờ) lứa bọn tôi đều biết. LK còn khá nhỏ khi khóa 16 bọn tôi nhập học tại Đà Lạt (23/11/1959), nên cô này phải chờ khóa 17 vào năm sau (cuối 1960), thì cô bước vào tuổi 16. Vậy là mối tình đầu của cô với T. (K17).

Bài hát trên, lại bởi tình cờ là dấu mở khóa cho câu chuyện với đề tựa “MÓN NỢ KHÔNG TRẢ ĐƯỢC”

Năm 1969. Ngay sau cuộc hành quân chiến thắng tại Cô-Tô (Thất Sơn), Trung Tá Cố vấn Mỹ Callahan mời BCH/B20 LLĐBVN đi thăm 1 Tiểu đoàn tại XYZ1. Trung Tá Nguyễn Quốc  n, CHT bận họp tại Cần Thơ, nên tôi (CHP) theo vị SQ cố vấn trên chiếc C&C (HU1B) - luôn trực sẳn tại sân bay.

Gặp Đại úy Hùng, Tiểu đoàn trưởng (K17 VBQGĐL), chúng tôi ăn trưa tại doanh trại. Nói chuyện, từ trong quân trường đã biết nhau, rồi ra đơn vị cũng đã làm việc gần nhau. Cuối 1965, tôi là Sĩ quan Phụ tá B20 LLĐBVN (là XO, theo cách gọi của Mỹ về chức vụ CHP - Danh hiệu “Sĩ quan Phụ tá” đổi thành CHP kể từ 1969). B20 LLĐBVN được thành lập tại Quảng Ngãi (cuối 1965). Hùng đang là Trưởng Toán A ? LLĐBVN tại XYZ2, kiêm Trại trưởng, với 1 Tiểu đoàn BKQ/BP.
  Bấy giờ B20 chỉ huy 5 Tiểu đoàn BKQ/BP tại Quảng Ngãi.

Câu chuyện được kể, muốn cho là “hư cấu” cũng được. Nhưng nếu là câu chuyện có thật, thì các nhân vật buộc phải dùng tên khác. Còn tôi, “đi không đổi họ, đứng không đổi tên”, có chút liên quan với câu chuyện, nên bạn bè “biết rõ tôi”.

Gia đình của cô gái rất nghèo. Bố là Thượng sĩ, mới tử trận khoảng 2 năm trước. Gia đình cô tại Hòa Khánh, Đà Nẵng. Nhà vách bằng ván gỗ, mái lợp tôn. Mẹ cô, không hiểu có phải bệnh tật hay vì khóc quá, mà cả 2 mắt bị “lòa”, không nhìn thấy rõ.
  Anh trai lớn đã 20, giỏi âm nhạc, là 1 tay nghề gui-ta điện, là lính “Tâm lý chiến” trong ban nhạc của đơn vị.

Qua 2 năm, tiền tử-tuất cũng hết. Lương anh (Kiều Vũ) không đủ nuôi mẹ và các em : Kiều Thu Diệp và 2 em (trai 12, gái 7). Thu Diệp, 16 phải thôi học (lớp Đệ Tứ). Diệp được anh giới thiệu vào ban nhạc đơn vị. Không chính thức nhận lương, nhưng Trưởng ban nhạc du di, cấp cho cô ít tiền mỗi tháng.

Toán Tâm lý chiến (Ban văn nghệ) 1 lần đó được máy bay chở lên doanh trại của Hùng. Ban chỉ huy Trại khoản đãi, và mở buổi khiêu vũ “bỏ túi” trong câu lạc bộ Toán Cố vấn Mỹ, sau buổi trình diễn ngoài trời chiều ngày D trước toàn thể quân nhân Tiểu đoàn.

Có 3 “nữ quân nhân” trong toán “Tâm lý chiến”. Đều là ca sĩ trong ban nhạc. Đều nhảy giỏi (dĩ nhiên phải học dancing). Tuổi trạc nhau, từ 17-25. Cô Chân xinh nhất, hát cũng hay nhất, được Hùng săn đón, cùng nhau nhảy nhiều bản. “Vũ nữ” chỉ có 3, mà khách là 2 toán LLĐB Việt và Mỹ gần 20 quân nhân có mặt.

Cũng nói rõ hơn về tổ chức Trại LLĐB. Có 2 Toán A LLĐB Việt và Mỹ. Mỗi toán khoảng 12 quân nhân (2 SQ + 10 HSQ, BS). Toán VN đều là quân nhân chính quy, hưởng lương Bộ Quốc Phòng.
  Mỗi Trại có từ 3 đến 5 đại đội BKQ/BP, tên trước là DSCĐ (CIDG) do Mỹ (CIA) trả lương. Lương BKQ có cao hơn lương chính quy chút đỉnh.

Thu Diệp cũng xinh. Cô tuổi thật mới 16, sau phải khai “gian” 18 để chính thức được ăn lương (Mỹ). Cô thích Hùng.

Hùng kể tôi nghe câu chuyện tiếp theo. Chúng tôi có các họp tại Đà Nẵng với BCH C1 LLĐBVN, vào cuối 1965, đầu 1966. Tôi cũng đã tham dự nhiều lần. Hùng cũng đã rủ tôi đến nhà Thu Diệp. Hóa ra khi đến nhà mới biết, do mẹ của Diệp vô tình nói ra. Tên gọi ở nhà của Diệp là Nhớ (Kiều Thị Nhớ). Mẹ cô chỉ biết tên “Nhớ”.

Một lần nào đó có dịp bay về Đà Nẵng, Hùng đến nhà Chân. Thất vọng vì nghe chính Chân cho biết cô đã có người yêu (sắp đám cưới), là 1 thông dịch viên, tên Lực. Hùng buồn tìm đến Thu Diệp. Diệp thì vẫn luôn hướng về Hùng.

Hùng cho tôi biết, lòng Hùng chỉ thương hại gia cảnh của Thu Diệp. Nhất là Vũ, anh trai lớn của Diệp lại vừa lấy vợ. Tiền kiếm được của 2 anh em không thể lo cho mẹ và 2 em còn nhỏ + còn đi học. Tôi cũng không ngờ khi nghe Hùng kể, và chính Hùng cũng không nghĩ rằng anh ta lại quyết định “việc” đó.

Đêm đầu tiên, chính Thu Diệp gợi ý với Hùng. Họ cùng ăn chiều. Chỉ uống bia, nhưng uống nhiều và cả 2 đều say. Họ thuê khách sạn tại Đà Nẵng. Thu Diệp nói lên quyết định của mình. Rằng anh Vũ của cô, trước đã không quán xuyến nỗi mẹ và 2 em, thì nay lại cưới vợ. Riêng cô, đồng lương cho cá nhân còn không đủ, làm sao giúp anh để lo cho gia đình.
  Cô quyết định chọn làm “vũ nữ chuyên nghiệp” + tiếp viên tại 1 quán “bar”. Cô bảo, cô biết bước đường “phong trần” tương lai chỉ là 1 hình thức “bán dâm” không chính thức.

Hùng kể lại rằng, Thu Diệp sẵn lòng trao lần đầu tiên con gái của mình cho Hùng. Biết Hùng không để ý đến cô - nói rõ hơn, không yêu - nhưng thật tình cô đã thầm yêu Hùng, kể từ hôm khiêu vũ tại doanh trại Tiểu đoàn năm ngoái (1965). Cô dứt khoát, vì cho rằng, đằng nào cũng sớm bước vào “cuộc đời mưa gió”, thì không mất trước, cũng mất sau. Chi bằng tặng cho người mình yêu dấu.
  Diệp khuyên Hùng chớ có lo lắng, thắc mắc. Cô sẽ không gây rắc rối cho Hùng.

Trước khi trao thân, Diệp chỉ nói rằng : ““em không “biếu không”, mà ước mong đây là “món nợ” ân tình, nhưng anh đừng lo - lúc nào có điều kiện thì trả””.

Hùng nói với tôi “Chắc vì tôi say quá. Mà cũng có thương Diệp. Hoàn cảnh cô ấy thật tội nghiệp. Mà cũng tại bài “Tình Mùa Chinh Chiến”, 1 trong các bài cô hát tại câu lạc bộ Mỹ đó, là bài tôi thích nhất, và nay mãi không quên”.

Thu Diệp không làm vũ nữ, cũng không bán bar. Năm sau, 1 sĩ quan làm tại BCH C1 LLĐBVN đề nghị sống chung với cô. Anh ta có điều kiện giúp mẹ và 2 em của cô. Rồi Diệp mang thai.
  Rồi đứa bé còn trong bụng Diệp đã không thể nhìn được ánh sáng ngoài đời. Diệp đã uống thuốc tự tử.

Tôi đã rời BCH C1 đầu năm 1967, trước khi việc trên xảy ra. Hùng thì chắc chắn biết, chắc đã có mặt trong tang lễ Thu Diệp. Để đầu năm 1969, tôi lại gặp Hùng như bắt đầu câu chuyện.

Có thể một ít người - nếu đọc câu chuyện tôi viết hôm nay - nói : “sao lại giống câu chuyện xảy ra tại BCH C1 LLĐBVN hồi đó vậy?”. Tôi xin đính chính, chỉ là sự trùng hợp 100%. Hơn nữa, tôi đã viết : “Muốn cho là hư cấu cũng được”.

Còn nếu viết “MÓN NỢ KHÔNG TRẢ ĐƯỢC” có ý gì? Vì rằng, khi tôi gặp Hùng đầu năm 1969 đó, thì Hùng than, e rằng món “nợ ân tình” với Diệp chắc không trả nỗi - ý nói giúp đỡ mẹ và các em của Thu Diệp.
  “Chắc không trả nỗi” chỉ là sự hoài nghi, có nghĩa rằng, cũng “có thể trả được”. Nhưng tôi thì cho rằng Hùng không trả được món nợ đó. Hùng không còn dịp nào.

Sau 30/4/1975, Hùng bị bắt làm “tù cải tạo” tại Xuyên Mộc, Phước Tuy. Không hiểu sao, Hùng bị cảnh vệ bắn chết đầu 1976.

(Stone Mountain GA - April 5, 2022)
-------------------------------------------

46. THI, TỪ - NHẠC - TIẾNG HÁT
Tiếng hát là của danh ca Đặng Lệ Quân. Về nữ danh ca này, thì tôi “hết ý”. Ta cứ lên online, cứ Youtube, cứ Google là biết bao tư liệu, tài liệu nói về cô ta. Tôi dùng “cô” để nói về Đặng Lệ Quân, vì cô ta nhỏ hơn tôi khoảng 14 tuổi, và cũng vì 1 lý do tế nhị khác.

Thập niên 70 tại Miền Nam VN, trong các năm đầu bấy giờ - tôi đã có nghe về Đặng Lệ Quân - nghe nói cô có đến Sài Gòn trình diễn cả tháng.

Mới đây, khi tôi có chút thì giờ, đã thích sưu tầm những bài hát, thu vào usb - nghe khi lái xe, khi ngồi trước computer. Nếu có dịp về VN, thuê xe chạy đường dài, thì lấy usb đưa cho tài xế, mở nhạc.
  Tôi có thu ít bài hát với giọng ca của Đặng Lệ Quân. “Ánh trăng nói hộ lòng tôi - Ngọt ngào - Mùa thu lá bay …”. Mới nhất, nghe được bài “Ngày nào anh trở lại”, thấy điệu quen thuộc, hình như đã từ hơn 70 năm trước. Lúc còn học tiểu học, bọn nhóc tôi đã nhái “Em có chồng sao em không nói - Để cho anh cứ vẩn vơ hoài”.
  Vậy bài nhạc có từ rất lâu, là bài hát Trung Hoa.

Ít ngày trước, là lần đầu tôi nghe toàn bộ bài hát này. Hát tiếng Tàu (là tiếng quan thoại hay phổ thông, nhưng không phải Quảng Đông - tôi có chút bì bõm, vì phần nhiều Tàu Chợ Lớn nói thứ tiếng này). Dĩ nhiên nghe không hiểu, chỉ quen điệu nhạc. May có phụ đề Việt ngữ. Ngoài tiếng Việt phụ đề, còn lại là chữ Hán (Nho, chắc là phồn thể). Cũng cảm ơn người dịch và phụ đề.

Tôi ghi lại lời Việt bài này (để làm tư liệu) NGÀY NÀO ANH TRỞ LẠI (chính bản : HÀ NHẬT QU N TÁI LAI) : “Hoa đẹp không nở mãi - Cảnh đẹp cũng không còn - U sầu chất đôi mi - Lệ rơi vương nỗi nhớ - Đêm nay ly biệt rồi - Ngày nào anh trở lại - Hãy uống hết ly này - Rồi ăn thêm món khác - Cuộc sống có bao lần được say - Không vui thì chờ đến bao giờ - Lại, lại, lại - Hãy uống hết ly này rồi nói tiếp - Đêm nay ly biệt rồi - Ngày nào anh trở lại - Hãy dùng khúc Dương Quan - Khi dâng chén bạch ngọc - Lời bày tỏ ân cần - Mãi giữ trong lòng anh …”

Xem tiểu sử Đặng Lệ Quân, sự thành công của cô đều do tài, sắc mà được. Nhưng cuộc sống tình cảm của cô đầy bão giông.

Cô hỏi mà cũng tự hỏi : Hà nhật quân tái lai? (Ngày nào anh trở lại), trong bài có câu “Hoa đẹp không nở mãi” là để ta ngậm ngùi cho số phận của cô. Cô mất vào tháng 5/1995. Nay đã qua 27 năm.

Hai hôm trước, tình cờ lên online mà biết ngày mất của cô được người đời nhắc đến. Cô vẫn được hâm mộ đến nay. Thêm chút thì giờ nghe lại tiếng hát của cô, tôi coi thêm album “ĐẠM ĐẠM U TÌNH” của cô phát hành năm 1983 (website nhac.mbfamily.vn)
  Đọc cả bài : “Album Đạm Đạm U Tình - Đặng Lệ Quân/Album Mộng Ảo nhất của làng nhạc Hoa ngữ”, tôi thấy cuối bài viết :
“Nguồn tư liệu : Qing An (cảm ơn bạn đã cho mình một nguồn dữ liệu quý giá như thế nào) - nguồn ảnh : google - video : Sammy Nguyen - VUI LÒNG KHÔNG RE-UP HOẶC COPY DƯỚI MỌI HÌNH THỨC.

Thấy câu chót có vẻ “răn đe” quá, tôi định dẹp chuyện này qua 1 bên, chợt có chút hiếu kỳ :
- Nhạc sĩ Tạ Hoành Trung (tôi rất thất vọng vì tìm không thấy tên ông này trong danh sách nhạc sĩ Trung Quốc nổi tiếng từ 4 thập niên qua) đã phổ khúc 12 bài cổ-từ Trung Hoa thời Tống (có cả thời Đường), gom thành 1 album tên “Tình U Hoài” năm 1980.
- Rồi qua trung gian của nhà sản xuất âm nhạc kiêm ca sĩ Trịnh Đông Hán (tôi cũng thất vọng vì người này chẳng có tiếng tăm gì), Tạ Hoành Trung có cơ hội gặp Đặng Lệ Quân. Thế mà cô này, sau khi tập dợt, hát, thì rất thích.
- Năm 1983, album Đạm Đạm U Tình của Đặng Lệ Quân được phát hành.
- Nhạc sĩ chỉ dùng 1 số câu của mỗi bài cổ-từ - dĩ nhiên gói ghém nội dung - rồi phổ khúc. Mà khi tôi nghe, thì giọng Đặng Lệ Quân cho cả 12 bài phổ khúc, cũng không hay hơn những bài cô thường hát. Thế nhưng có chút đặc biệt.

Tôi đã in ra và đọc kỷ 12 bài cổ-từ Trung Hoa đó. Thật rất cảm ơn www.thivien.net đã cho nhiều chi tiết về các bài cổ-từ này : - chữ Nho, - chữ Hán Việt, - dịch nghĩa ra Việt ngữ, - các bài thơ dịch bằng tiếng Việt, - vài nét về tác giả, - và đặc biệt có 1 số bài hát được kèm theo (Youtube). Đã cho tôi 1 nhận xét chung, đi từ nội dung từng bài (1 —> 12) mà biết tổng thể nội dung “Đạm Đạm U Tình”. Cũng là biết chút gì tâm sự Đặng Lệ Quân.

Tôi có cảm tưởng album Đạm Đạm U Tình như 1 bức tranh. 12 nét chấm phá như sau :

“Muốn nói lại thôi” (Dục Thuyết Hoàn Hưu), rồi để chỉ còn là “nhìn nhau mắt rưng lệ” (Tương Khán Lệ Nhãn). “Cỏ cây vô tình đâu hiểu lòng ta” (Phương Thảo Vô Tình). Mà riêng ta thì “nước mắt quanh trên má” (Yên Chi Lệ). Thật “biết bao là sầu” (Đa Sầu).
“Một mình lên lầu Tây” (Độc Thướng Tây Lâu), một mình, lòng chỉ “nhớ chàng” (Tư Quân). Đêm nay là đêm nào? Là “đêm nguyên tiêu” (Nguyên Tịch). Không biết người còn nhớ “người hẹn ước sau hoàng hôn” (Nhân Ước Hoàng Hôn Hậu). Đây là “tình ly biệt” (Biệt Tình). Nhớ người, “chỉ mong người mãi sống dài lâu” (Đãn Nguyện Nhân Trường Cửu). “Đêm thanh vắng nhớ người” (Thanh Dạ Ức Cố Nhân), mà ngoài kia thì “vạn lá lao xao” (Vạn Diệp Thiên Thanh).

12 nét chấm phá của bức tranh, là 12 bài hát, phổ khúc từ 12 bài cổ-từ được vắn tắt nội dung trên. Nhưng không dễ gì. Đã có lắm người dốc chí thực hiện cung cách trên, để cuối cùng “vứt vào sọt rác”. 3 năm sau, nghĩa là nhạc sĩ thực hiện “Tình U Hoài” năm 1980, mãi đến khi gặp Đặng Lệ Quân, thì “cá mới gặp nước” vào 1983.
  Bức tranh cần “điểm nhãn” để có sinh khí, mới “sinh động”.

Nhưng tại sao với Đặng Lệ Quân thì Tình U Hoài (Đạm Đạm U Tình) lại thành công “để đời” cho đến nay? Chắc chắn không bởi nhạc. Là “tình, ý” của lời các bài cổ-từ chính là tâm sự của nữ danh ca. Và Đặng Lệ Quân đã “xuất thần” mà trình diễn.

Tôi cũng “ôm ấp” các bài cổ-từ này :
(1) Vũ Lâm Linh / Liễu Vĩnh (2) Tô Mạc Già / Phạm Trọng Yêm (3) Thái Tang Tử của Tân Khí Tật (4) Tương Kiến Hoan 1 / Lý Dục (5) Ngu Mỹ Nhân / Lý Dục (6) Tương Kiến Hoan 2 / Lý Dục (7) Thủy Điệu Ca Đầu / Tô Thức (8) Bốc Toán Từ / Lý Chi Nghi
(9) Sinh Tra Tử /  u Dương Tu (10) Giá Cô Thiên / Nhiếp Thắng Quỳnh (11) Ngọc Lâu Xuân /  u Dương Tu (12) Đào Nguyên Ức Cố Nhân / Tần Quán.

Thật là trùng trùng điệp điệp!

“Đang lưu luyến, thuyền lan giục giã ra đi. Tay nắm tay, mắt nhìn mắt, rưng rưng lệ. Người ra đi, khói sóng trãi dài nghìn dặm. Mây chiều man mác, trời Sở bao la” (Liễu Vĩnh)
“Cỏ thơm đâu hiểu lòng ta, lan man mọc tới cuối trời. Rượu thấm lòng buồn, lại là tương tư lệ” (Phạm Trọng Yêm)
“Đến giờ mới hiểu mùi vị sầu. Muốn nói lại thôi. Chỉ thầm an ủi : trời mát, mùa thu đẹp” (Tân Khí Tật)

Với Lý Dục, 1 vị vua mất nước, bị bắt, bị đầu độc chết bởi vua Tống, nhưng lại 1 vị vua danh tiếng nhất về cổ-từ. Có phải khi viết bài “vui cùng gặp nhau” (Tương Kiến Hoan), thì Lý Dục đã cảm thấy nước sắp mất, người đẹp (2 chị em hoàng hậu Chu Kiến) cũng phải chia tay?
  “Không làm sao được với cơn mưa lạnh đang tới - Cơn gió chiều - Nước mắt quanh trên má. Bao giờ mới gặp lại?” (Lý Dục).

Và cũng Lý Dục, khi người vợ yêu dấu (hoàng hậu Chu Kiến) sớm vĩnh biệt, thì ông hỏi “Điêu lan ngọc xế ưng do tại … Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu” (Thềm son bệ ngọc có lẽ vẫn còn y nguyên đó … Hỏi lòng ta biết bao là sầu?) / Lý Dục.
  Không giỏi việc nước, nước sắp mất. Chỉ với thi, từ và mỹ nhân. Mỹ nhân từ nay vĩnh biệt. “Không nói được - riêng ta lên lầu Tây. Trăng như câu, lặng lẽ cây ngô đồng trong viện” (Lý Dục)

Và nhớ nhau. “Ngã trú Trường giang đầu. Quân trú Trường giang vĩ. Nhật nhật tư quân bất kiến quân. Cộng ẩm Trường giang thủy. Thử thủy kỳ thời lưu? Thử hận hà thời dĩ? Chỉ nguyện quân tâm tự ngã tâm. Định bất phụ tương tư ý” (Lý Chi Nghi)
(Thiếp ở đầu Trường giang. Chàng ở cuối Trường giang. Ngày ngày nhớ chàng chẳng thấy chàng. Cùng uống nước Trường giang. Dòng sông này bao giờ ngừng trôi? Nỗi hận này bao giờ mới hết? Chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp. Nhất định không phụ nỗi niềm nhớ nhau)

Từng hẹn ước. “Người hẹn sau lúc hoàng hôn. Năm nay đêm rằm tháng giêng. Trăng, đèn như cũ. Chẳng gặp cố nhân. Nước mắt đẩm tay áo” ( u Dương Tu)

Và Đặng Lệ Quân gửi lòng mình vào “Thủy Điệu Ca Đầu” của Tô Đông Pha - là đệ nhất danh cổ-từ Trung Hoa.
“Trăng sáng bao giờ có? Nâng chén hỏi trời cao. Chẳng hay trên đây cung khuyết. Đêm đó nhằm năm nào? Rắp định cưỡi mây lên đến. Chỉ sợ lầu quỳnh điện ngọc - cao ngất lạnh lùng sao? Đứng múa với thanh ảnh. Trần thế khác chi đâu … Người có buồn, vui, ly, hợp. Trăng có tỏ, mờ, tròn, khuyết. Tự cổ vẹn toàn đâu. Chỉ mong người trường cửu” (Tô Thức)

Và, Tây xuất Dương Quan vô cố nhân! Ấy “Tình ly biệt” (Biệt Tình). “Chén rượu biệt tình, là Dương Quan khúc. Tiễn biệt ai ai mấy lộ trình” (Nhiếp Thắng Quỳnh)
  Trời nước, chỉ là “vạn lá lao xao gieo buồn tủi. Tay vò gối lệ biết tìm đâu?” ( u Dương Tu).
  Chừ, chỉ là “Thanh dạ du du thùy cộng?” (Đêm thanh dằng dặc mình ta) (Tần Quán).

Điệu nhạc có vang vọng, rồi cũng mất trong lãng quên. Nhưng tâm tình người hát - nhất là Đặng Lệ Quân - còn mãi. Cô đã ôm lấy tình, ý của 12 bài cổ-từ, thổn thức. Dù đã từ 27 năm trước, cô hết còn hiện hữu trên dương thế, nhưng tôi vẫn nghe tiếng “NGỌT NGÀO” của cô, tiếng cô gửi gắm “ÁNH TRĂNG NÓI HỘ LÒNG TÔI” còn văng vẳng!

(Stone Mountain GA - June 23, 2022)
------------------------------------------------

47. SUỐT MỘT CHIỀU DÀI
Bài đầu tiên là bài thơ dịch thoát từ bài Lâm Giang Tiên của Dương Thận, đời Minh, Trung Hoa. Viết vào March 11, 2021.
  Đến nay, June 16, 2022, cả thảy có 64 bài được viết. Có dài có ngắn… suốt 15 tháng, chiếm không ít thì giờ của tôi. Duy “nhắm” vào 1 hình ảnh ( mà luôn xuất hiện bên tôi - hiện thực hay trong tâm tưởng) thì chưa có can đảm viết về. Vì phức tạp quá. Vì đặc biệt quá. Vì tôi quá ích kỷ, chỉ muốn giữ lấy làm của riêng, phải chăng?

Gần 60 năm trước, tôi gặp một nữ sinh. Đó là ngày 29/12/1962. (Chắc tôi phải tổ chức 1 ngày kỷ niệm vào 6 tháng sau, gọi là “60 năm cuộc đời”).

Tôi có viết bài “Huế và tôi”, kể chuyện mình theo sau 1 nữ sinh suốt mấy tháng. Không biết mặt, và dù có vượt qua nàng cũng không dám quay ngang hay quay phía sau để nhìn rõ. Chỉ là một câu chuyện. Không đi đến đâu, tuổi trẻ mau quên, tình “thơ” qua chóng. Nghĩa là gặp gỡ ngắn dài 1 hay nhiều người con gái, thì bất kỳ người nam nào cũng kinh nghiệm.

Nhiều bài khác cũng dính dáng đến những bóng hồng. Thế nhưng nhân duyên đều tùy mệnh số. Hợp rồi tan. Gặp rồi ly biệt.

Gặp cô nữ sinh đó, quả là duyên phận. Không phải “người tình đầu tiên”, nhưng là “người yêu cuối cùng”. Vậy người tình, người đẹp nào cùng sóng bước với ta đến điểm chót, gọi là “người tình trăm năm”. Thật tình chỉ là cách nói - mỗi người hiếm lắm mới sống 100 tuổi, thì làm sao có “người tình 100 năm”?

Ngày ra trường (quân trường) là 22/12/1962, vào ngày thứ bảy. Ở lại Đà Lạt thêm 2 ngày để : - hưởng Noel Eve tối thứ hai (24), - từ giả 2 chị họ, - từ giả vài bóng hồng (A., H., S.), - chia tay các bạn thân (Cương, Quang, Thuận)

Trong cuốn hồi ức viết (2020), tôi kể việc trù tính về Sài Gòn, ở lại đây gần 2 tuần phép, trước khi ra Đà Nẵng nhận đơn vị. TP, cô bé tôi biết 7 năm trước, đã lớn (19) - mới vào đại học - hình như vẫn giữ mối quan hệ tốt với tôi. Đúng ra là mối quan hệ giữa gia đình cô và tôi. Anh cô là bạn học rất thân của tôi (từ 7 năm trước). Bố mẹ cô cũng rất thích tôi - nhất là bố.

Sự việc xảy ra không như ý, đã được thay đổi (180 độ). Mua vé hãng xe Minh Trung, dự trù đi Sài Gòn sáng 25/12/1962 (thứ ba), lại mất ví. Phát hiện và tìm lại chỉ nửa giờ sau - người bán vé giao lại ví. Mọi giấy tờ còn y nguyên, chỉ mất vé xe và toàn bộ tiền khoảng vài ngàn (lương chuẩn úy bấy giờ là 3.300$/tháng)

Chị D. (tên chồng - tên riêng, Công Tôn Vân Lộc - ngang với Ưng của hoàng tộc), con cô ruột, cho mượn tiền. Không nhiều. Đành mua vé đi Quảng Ngãi, nơi người anh ruột đang làm việc (anh ta khoe nơi này “phong cảnh hữu tình”).
  Nói thay đổi 180 độ, là thay vì xuôi nam về Sài Gòn, thì nay trực chỉ Bắc.

Đến Quảng Ngãi, đến địa chỉ anh ruột. Dự tính ở đây cho đến cuối tuần (thứ bảy, 29/12/1962), rồi mua vé xe hàng đi Đà Nẵng, ở lại Tourane vui với các bạn 1 tuần, rồi sẽ trình diện Sư Đoàn 2 Bộ Binh vào 8/1/1963.

Chuyện đời luôn thay đổi, lắm khi khiến ta chóng mặt.
  Hôm nay là thứ bảy 29/12/1962. Tôi dự tính sẽ đi Đà Nẵng vào ngày mai. Khoảng 8 giờ sáng, dậy đánh răng súc miệng xong, thì trên mặt bàn tại phòng khách (gian giữa của nhà xưa : 1 gian 2 chái), đã có sẵn bình trà nóng, chén cháo trắng và trứng gà luộc + nước mắm, ớt (thường lệ mỗi sáng). Bà già - mẹ của chị dâu, luôn có thói quen này - ít nhất đối với tôi cả tuần nay.

Tiếng nói chuyện của 2 người dưới nhà bếp vọng lên. Giọng con gái rất nhỏ, lí nhí không nghe rõ. Giọng bà già thì oang oang. Cô tên Kim. Bà muốn cô ở lại chơi, bảo rằng em của anh Các từ Đà Lạt đến ở cả tuần, mai phải đi Đà Nẵng. Kim từ chối, bảo phải về nhà, vì đã 2 tuần bận học thi nên chưa về được.

Tiếng xe đạp. Bóng cô gái mặc áo dài đen, quần đen, đội nón + xe thoáng từ sân nhà ra cổng. Chỉ nhìn thấy phía sau lưng.

Tôi vẫn tại bàn. Cháo ăn xong, bắt đầu rót trà uống. Thấy bình thường. Thật yên tĩnh. Sân rộng mươi bước, tiếp là 2 hàng chè tàu ra cổng, thẳng ngay phân đôi khu vườn. Từ trong nhìn ra, bên phải là những luống khoai lang, có hàng tre bên hông, là ranh giới 2 khu vườn nhà. Cũng là 2 hàng chè tàu 2 bên cổng, ngăn con đường làng với vườn, nhà. Sát chân những hàng chè tàu (trong vườn, nhà)  là những dãy khóm (thơm).
  Bên trái, cũng giống 1 phần như bên phải. Chỉ thêm chiếc giếng, miệng và hơn thước vành chung quanh đúc xi-măng. Và 5 hay 7 gốc ổi. Đang vào mùa, và tôi làm bạn với chúng mỗi ngày.

Người đi rồi người trở lại? Mắt vẫn lướt ngắm 2 bên vườn. Khi ngõ mắt nhìn thẳng dọc con đường từ sân ra cổng - chắc là linh tính - thì cô gái đạp xe vụt từ cổng, vào sân, rẽ trái ( từ trong nhà nhìn ra), ra sau bếp. Cũng thoáng nhìn thấy khuôn mặt. Cô cúi đầu đạp xe.

Tiếng nói chuyện lại vang từ nhà bếp. Lần này bà già vẫn to giọng. Chỉ mấy phút, bà già tay cầm nón, tay nắm tay cô gái, xuất hiện tại ngưỡng cửa từ chái phải (nhìn từ ngoài), bước vào gian giữa. “Chàng” vẫn còn uống trà. Chiếc nón được bà già đặt trên mặt phản rộng sát cửa xuống chái. Phản có 5 tấm ván dày, dài khoảng 1.8 mét, rộng của cả 5 tấm khoảng 1.5 mét. Bác Hai (tên bà già) nói với tôi, đây là Kim, rồi xuống bếp.

Kim e thẹn, 2 tay đan vào nhau, lúng túng. Tôi, vốn “mặt dày là bản tính”, bảo Kim cứ tự nhiên, mời Kim đến ngồi vào bàn cùng uống trà. Tay lấy tách trà thứ 2 trên dĩa ly tách (thường có 4), và rót trà, chuồi về phía đối diện.
  Ngồi vào bàn. Gian giữa của nhà này theo lối xưa. Phần sau, bàn thờ ở chính giữa - 2 bên để những tủ áo, vật dụng. Phía trước, cách bàn thờ gần 2 mét, là chiếc bàn và 4 ghế mây ở giữa - đều bằng “gõ”. Sát vách trái (nhìn từ ngoài) là chiếc giường rộng (đủ 3 người nằm). Sát vách phải, là chiếc phản như nói trên. Ngăn gian giữa với 2 chái là 1 vách gỗ, cao 2 mét. Vách chạy quanh gian giữa, và 2 chái thông với nhau bởi 1 hành lang phía sau gian giữa.

Kim giải thích 2 việc : (1) Cô trở lại nhà anh chị Các để lấy 1 số vật dụng của mình như áo mưa, mền gối, v.v… Năm ngoái, cô trọ học ở đây. Một số vật dụng chưa kịp chuyển đi. (2) Lần rời nhà mươi lăm phút trước đây, cô đi chưa xa khỏi đầu ngõ của xóm, thì gặp Hường đi chợ về. Hường là vợ anh Các (là chị dâu tôi).Chị hay đi chợ sớm (đi bộ, từ 7g sáng). Từ nhà đến chợ khoảng 2 km.
  Gặp Kim, chị đon đả mời Kim ở lại, muốn giới thiệu Kim cho em chồng. Kim lại là chị họ của Hường. Từ nhà chị Hường đến nhà Kim (ở Phước Lộc, Sơn Tịnh) xa trên 10 km. Con trai thì có thể, chứ con gái mà phải đi học 2 buổi (ăn cơm trưa thuê nấu) phải 20 km đi, về trong ngày, là cả vấn đề.
  Năm nay vì muốn cùng các bạn tương-trợ học thi Tú Tài 2, nên Kim cùng 3 bạn nữ cùng lớp (cũng ở xa trường), thuê 1 căn trọ trên đường Trần Hưng Đạo, gần trường Trần Quốc Tuấn (tên thì chỉ 1 người, đời sau rắc rối, cái thì trường học, cái thì con lộ).

Đã 2 tuần rồi, Kim chưa về Phước Lộc. Cô nhất định từ khước lời mời của Hường. “Đàn bà ít lý sự, chỉ thể hiện qua hành động”, và Hường giựt lấy cuốn sách từ porte- bagage xe Kim. Sách vớ vẩn thì cũng bỏ mặc, dù là tiểu thuyết “tình cảm”, có kể chuyện “tình yêu” hấp dẫn hay gay cấn cách mấy, thì lúc này phải để qua 1 bên. Phải lo học thi. Thi hỏng khó lấy chồng!

Hường yên tâm cầm trong tay cuốn Vạn Vật Học lớp Đệ Nhất A, thong thả từng bước. Trời! Cả 1 năm học, chỉ trông cậy vào nó là chính, để có thể có kết quả mong muốn. “Chị về trước đi”, Hường nói với Kim. Tình chị em họ, lời lẽ nghe cũng ngọt sớt!

“Cô tên Kim hả?”, tôi hỏi Kim. Chẳng ai ngờ nghệch cả. Tôi đã nghe biết, còn làm bộ! Dĩ nhiên cô gái 20 tuổi cũng hết “ngây thơ”. Chắc cô cũng rủa thầm tôi “Bớt xạo đi cha!”. Kim đã hết e thẹn. Lấy lại bình tĩnh, và đôi mắt lóe tinh nghịch.
  Tôi cất tiếng “Tôi chẳng có sở trường gì. Đàn hát quều quào, không biết gì để làm vui lòng người khác”. “Có điều học bạn bè cách xem chỉ tay - rất linh nghiệm, có nhiều người làm chứng”, tôi nói niếp.
  Nhìn thẳng vào Kim. Da mặt trắng. Có duyên, xinh.Mắt to, sâu - khóe mắt trông “đa tình”. Những ghi nhận này chỉ ở trong lòng, còn lời nói ra, là “khoe” tài xem chỉ tay. Tôi có thể kể ra hàng chục, hàng trăm tên làm chứng. Nhưng Kim không biết một ai. Tiếc thật, họ đều ở Huế, Đà Lạt.

Xem chỉ tay xong, tôi ao ước biết cảnh vật ở đây (như anh tôi khoe là “phong cảnh hữu tình”), hy vọng người đã từng ở đây như Kim làm “hướng dẫn viên du lịch”. Thế mà Kim lại sẵn sàng. Lòng thương người của cô gái này chắc thật nhiều. Cô ngại tôi đi 1 mình sẽ “lạc đường về” chăng.
  Thế là tôi đi sau Kim 1 bước. Chúng tôi ra sân, ra cổng, rẽ phải. Đi theo đường làng khoảng vài chục mét, có con đường rẽ phải ra bờ sông Trà Khúc, với rặng dương vi vu!

Mới cách ít bước rồi rẽ phải, ra bờ sông, thì sau lưng 2 người, tiếng gọi của Hường. Chị đang tiến vào cổng nhà : ngạc nhiên thấy 2 người chúng tôi vui vẻ “bên nhau”. Tôi phất tay với chị, ý nói “sẽ giải thích sau”. Tiếp tục đi.

Sau này chị mới tỏ ý ngạc nhiên, rằng khoảng gần nửa giờ trước đó, ép Kim ở lại ăn cơm trưa. Thì Kim cứ nằng nặc đòi về, nại nhiều lý do. Đùng 1 cái, 1 cặp trai gái đã song song bên nhau, đi tham quan bờ sông. Gần trưa, trời nắng, nóng. Bờ sông thì giờ này mà đẹp quái gì!

Thế là phải thay đổi chương trình. Tôi ở lại Thạch Bích, Quảng Ngãi thêm 1 tuần. Thạch Bích là tên xóm của gia đình anh chị (Các + Hường).

Thứ hai, thứ ba tuần trước, trường nghỉ lễ Noel. Tôi hân hạnh tháp tùng Kim đi học. Đón Kim từ nhà trọ, đến trường chỉ khoảng 300 mét. Nghĩa là tôi phải dậy sớm, xong mọi thủ tục vệ sinh sáng, đi bộ từ Thạch Bích đến đường Trần Hưng Đạo, đón Kim.
  Thứ hai (31/12/1962), đưa Kim đi học. Hôm sau là đầu năm dương lịch, tôi không nhớ các trường học có được nghỉ không. Tôi không nhớ. Chỉ biết các ngày đi học sau đó, tôi hay đến : lúc thì đưa Kim đi học, lúc thì chờ Kim bãi học chiều thì đón Kim đến quán chè nổi tiếng.

Cách trường Trần Quốc Tuấn mới khoảng 100 mét, thì tôi phải bước chậm lại, cách Kim mươi bước, theo yêu cầu của “nàng” (Xin lỗi, bây giờ có chút gần gũi, nên cách xưng hô cũng nên đổi - “cô” thành “nàng” là thế đó!)
  Cất đi bộ ka-ki vàng, tôi khoác vào quân phục tác chiến xanh. Cổ áo với hoa mai còn mới, vàng chóe. “Ranh như học trò”, nam-nữ-sinh quanh cổng trường chợt thấy 1 sĩ quan lạ đi theo cô KL (dù cách mươi bước, mà mắt chàng cứ lấm lét nhìn). Họ đoán ra ngay. Hai hôm sau khi tháp tùng Kim đi học, Kim nói với tôi rằng các bạn của Kim muốn “mặt đối mặt” tôi. Ngại gì!
  Chiều đó, tôi đến trình diện các “mỹ nhân”. Đúng là chọn bạn mà chơi : Cả 4 cô đều xinh - kể cả Kim!

Thứ bảy tuần này, 5/1/1963, tôi lên xe hàng đi Đà Nẵng. Kim đạp xe tiễn tôi. Chờ tôi lên xe, Kim đạp xe về Phước Lộc.

Rồi Nông Sơn, những thư đầu như cánh én vút bay. Rồi Quảng Nam với Việt An, La Ngà của Hà Lam, Thăng Bình. Phước Lâm, Trà My.
“Đây Trà My đó Trà Bồng. Còn bao xa nữa quãng đường đến em”. Rồi Sài Gòn với chính biến 1/11/1963. Rồi Hòa Cầm, Quảng Nam đầu 1964.

Rồi đám cưới, cũng đầu 1964. Rồi Khe Sanh, rồi hành quân biên giới.
  “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?”, thì tôi cũng đã lắm chuẩn bị :
“Ngày mai anh đi lên núi. Nghĩ xem còn quên những gì. Ba lô hành trang không thiếu. À quên, còn lời biệt ly. Giả từ giả từ em tôi. Hãy cố lên đi mà vui. Xa nhau dù bao lâu nữa. Vẫn nhớ em mãi không thôi. Giả từ giả từ đồng xanh. Hẹn gặp nhau ngày thanh bình. Hãy cứ vươn lên mầm sống. Chúc đồng bằng mãi mãi xanh” (1964).

Rồi hơn 10 năm chiến trận. Rồi gần 10 năm lao lung “nghìn dặm lưu đầy”. Với những Xuân xa cách đó, thì “Đêm trừ tịch sắp trôi qua. Mà người nghìn dặm từ xa chưa về”.

30 năm xứ người. 8 thập niên cười khóc với nổi trôi của vận nước + tình đời. Suốt một chiều dài, “người tình trăm năm” vẫn bằng cách này hay cách khác - với hình thức này (hiện thực) hay hình thức khác (trong tâm tưởng) - cùng tôi vẫn có nhau, bên nhau.
  Tôi viết chưa xong “bài thơ con cóc”, nên chỉ ít dòng:


“Ông lão 82 nhìn bà lão tám mươi
“Muốn cười, nhưng hết răng, thật khó cười
“Cũng muốn khóc, mà không còn nước mắt
“Lệ đã chảy, đến nay thật chảy hết rồi
“Hỏi em, em không còn gì thêm ao ước
“Riêng anh, mong mình trở lại tuổi đôi mươi
“Nhưng dặn lòng, tuổi thì đừng quá nhỏ
“Vì nhỏ quá, làm sao ta biết hôn môi?
“Chúng mình quyết sẽ sống cuộc tình như cũ
“Có là ngàn năm lùi lại, vẫn thế thôi “”

(Stone Mountain GA - June 16, 2022)
---------------------------------
 
 
 
Đây là đề tài tôi chọn viết để kỷ niệm một thời điểm “rất đặc thù”, vì nó để lại 1 âm hưởng “đặc quánh” không dễ loảng tan, hay biến thành hơi, khí mà bay mất.
  Tôi đã khởi viết vào ngày hôm qua (1/4/2022). Vội xóa ngay. Vì lẽ hôm qua, theo thói quen người đời, được gọi “cá tháng tư”. Một điều khôi hài như thế không thể xen lẫn vào “những chuyện của 47 năm trước” - liên quan 1 biến động lớn, tác động hết sức mạnh trên chính trị, xã hội, đạo đức, tập quán, văn hóa miền Nam VN, kể từ sau tháng 4 năm 1975.

Vậy, hôm nay viết (2/4/2022).
Ngày 2 tháng 4 năm 1975, tôi vẫn từ Sài Gòn đi Biên Hòa. Cứ sáng đi, chiều về như vậy đã gần 1 tháng nay. Rời chức vụ tại Quảng Ngãi hôm 1/1/1975, tôi được cấp 15 ngày phép. Xong, đi Sài Gòn.

Về Sài Gòn bằng máy bay thì mau. Hành lý không nhiều. Hơn nữa, tại căn hộ mua từ năm ngoái (1974), thuộc quận Phú Nhuận, đường Nguyễn Huỳnh Đức, đã có sẵn mọi vật dụng. Nhạc phụ, nhạc mẫu + 4 con trai lớn của tôi đã ở đây. Họ từ Quảng Ngãi vào từ năm ngoái. Các con tôi - nhỏ nhất, 3 tuổi - có 2 đứa lớn đi học.
  Vợ tôi và đứa bé gái út còn ở Quảng Ngãi. Vợ tôi phải dạy học, đang chờ quyết định chuyển trường (về Sài Gòn) từ Bộ Giáo Dục. Hơn nữa, đang chờ bán được nhà : đã có người hỏi mua.

Phương tiện đi lại tại Sài Gòn rất dễ dàng. Đủ loại xe. Tuy vậy, con đường - từ nhà đến Bộ Nội Vụ - từ nhà đến Bộ Quốc Phòng - từ nhà đến Bộ Tổng Tham Mưu - và sau cùng, từ nhà đến Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 3 tại Biên Hòa - lại quá xa, mất hơn 3 tháng.

Cuối cùng, trung tuần tháng 4/1975 về Tiểu khu Bình Tuy nhận nhiệm vụ, đã thấy ở đây quá vắng vẻ. Chiếc Chinook thả tôi và vài quân nhân xuống sân Tiểu khu rồi vội vã bay đi. Đến Phòng Tổng Quản Trị, chỉ thấy 1 Hạ sĩ quan ngơ ngáo. Không biết Trưởng Phòng đi đâu. Phải qua Trưởng Phòng mới được đến gặp Đại Tá Trần Bá Thành, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Tuy. Phòng Tổng Quản Trị QĐ & QK 3 cấp Sự Vụ Lệnh cho tôi nhận chức vụ Trưởng Phòng Thanh Tra Tiểu khu Bình Tuy.
  Ít ngày loanh quanh ở đây, chưa gặp giới chức nào, chưa “được phép trình diện đơn vị”, thì những tin tức dồn dập. Bấy giờ khoảng 19/4/1975 (tôi không nhớ rõ). Lại vài ngày sau, tin Phan Thiết bị chiếm, rồi Hàm Tân (thuộc Bình Tuy) mới mất (khoảng 20, 21/4/1975).

Thế là tan hàng. May mà gia đình xum họp. Vợ tôi + bé gái út vài tháng tuổi được cháu Tài (học sinh đệ nhị cấp Trần Quốc Tuấn, dạy kèm các con tôi từ mấy năm nay) giúp đỡ, đã an toàn rời Quảng Ngãi (22/3/1975) trước khi nơi này mất vào tay địch 3 hôm sau (25/3/1975).

Kể từ lúc về Sài Gòn hạ tuần 1/1975, tôi thường gặp bạn “nối khố” Lê Hữu Cương. Rồi từ Bình Tuy về lại đây vào những ngày cuối tháng 4/75, tôi cùng Cương ngược xuôi tìm hiểu tình hình cho rõ hơn. VNCH dứt khoát cáo chung.
 Cương cũng mới xin thôi làm việc với LM ? Viện trưởng Đại học Minh Đức. Gặp bất cứ ai quen thân, họ đều khuyên “tìm đường ra nước ngoài”.

Bề ngoài, lý do đơn giản cho nền chính trị của VNCH (1954-1975) cáo chung, kể cả QLVNCH tan rã, là việc mất Ban-mê-thuột (3/1975). Nhưng đó chỉ là “khói”. Bên trong mới chính là “lửa”, đã từ âm ỉ, rồi bộc phát lúc to lúc nhỏ, từ những năm trước. Đúng sai, thật giả thì đã có câu trả lời ngay chính từ “đồng minh thân thiết” của VNCH. Rất đơn giản, họ ngay từ đầu đã nặn từ đất nước VN (vốn đã là miếng bột dễ nắn) thành một nửa theo ý họ (miền Nam VN). Chừ, họ bán miếng bột đó với tiền lời lớn, thì tội gì họ không làm, không phủi tay? Hai mươi năm chỉ mất vài trăm tỉ đô-la, chừng 6 vạn nhân mạng công dân của họ, còn lời chán!

Chính trị ngoắt nghoéo, ai muốn làm, ai muốn hiểu sao cũng được. Nhưng hệ quả từ nó thì xiết bao kinh hoàng, khốn khổ. Xã hội miền Nam VN sau 30 tháng 4 năm 1975 không biết làm sao mà diễn tả.

Cũng không cần nói đến “Bên Thắng Cuộc”. Chắc chắn là vui quá, quá vui. Đến nỗi ăn quá no mà chết như Mười Vân (Đại Tá Công An Tỉnh Đồng Nai). Chết không oan, mà lại “chết oan”. Đàn anh ăn gấp 10, gấp 100 thì không sao, còn mình chỉ ăn “cơm thừa, canh cặn” lại bị buộc tội tử hình. Thói đời làm “pháo hôi” là thế!
(Người làm “bia đở đạn” hãy hỏi thẳng Đỗ Mười - kẻ cầm đầu “đánh tư sản mại bản” đầu 1976 - sao ông này không bị xử lý giống mình, lại trở nên số 1 (Tổng Bí Thư) sau này?)

Nhiều hình ảnh của đời người, rút còn 3 sắc thái : - kẻ vui như đã nói trên, - kẻ buồn quá, là đa số gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” mất nhà, mất tiền của, mà thân nhân (cha, chồng, con …) thì bị tù đày “không hẹn ngày về”, - tất cả số còn lại (phần muốn ngã theo “bên thắng cuộc” thì quá muộn : quá nhiều người đang dính máu ăn phần - phần sống “cuốn theo chiều gió”, mặc sự đẩy đưa của thời thế - phần tìm đường vượt biển, vượt biên “5 ăn, 5 thua”, với kết quả, hằng trăm ngàn người chìm sâu đáy biển).

Chuyện của 2 tháng 3 và 4, năm 1975 thì bây giờ ai cũng biết. Rất nhiều, rất “tang thương ngẫu lục” - chút khác biệt, là “không tình cờ”. Mà là có chủ ý : ý trời, ý người. Ai cũng có thể tìm kiếm trên online. Thế thì khi bài tôi viết “Mùa Xuân Nào Em Còn Nhớ”, không chỉ ý nói về 1 nền chính trị cáo chung, cũng là muốn đề cập đến 1 tình người, 1 sinh hoạt xã hội phức tạp, 1 đối xử thô bạo, tàn ác của những người, hở 1 tí là “đồng bào ruột thịt”, 1 chút là “miền Nam trong trái tim tôi”. Tim bằng đồng bằng sắt, thì cũng như không!

47 năm trước. Người đã định đi tù thì đi tù. Hằng ngàn, vạn “kho” khổng lồ dân sự, quân sự đang được “tháo khoán”, sẽ được vét sạch không lâu. Chuyện 16 tấn vàng được qui cho Cựu Tổng Thống Thiệu (vẫn sớm bị “bật mí”, không ai xa lạ : kẻ chiến thắng muốn nói gì, làm gì thì bấy giờ ai dám phê phán?). Tiền tài, của cải ê hề. Thế là 1 ủy ban “đánh phá tư sản mại bản” từ Bắc vào Nam làm việc. Phải là từ miền Bắc mới “hiệu quả”, mới “đáng tin”. Ôm trọn gói!
(Sau này, không ai lạ gì, 1 số công tử của các “đại gia” họ Võ, họ Lê, họ Phạm, … được âm thầm xuất ngoại, dưới nhiều hình thức. Họ mua nhà, mở các dịch vụ làm ăn lớn, nhiều cách không thể kể hết, kể ra. Biện pháp “rửa tiền” được áp dụng triệt để. Và, “lý luận Đảng” biến thành “hành động”, đổi nền “Xã Hội Chủ Nghĩa” thành “Tư Bản Đỏ”. Có những “tỉ phú đô la Mỹ” âm thầm, không cần lên trang báo đánh giá thế giới. Vô ích!)

Tất cả hiệu sách đều bị phong tỏa. Mọi sách của VNCH đều “đồi trụy”. Chính sách “Tần Thủy Hoàng” được áp dụng. Vài tháng sau đó, sách cũ nửa kín nửa hở được bán trên mọi vĩa hè đường phố. Rồi nhạc vàng, nhạc xanh …

Rồi đi kinh tế mới. Rồi chương trình văn hóa, giáo dục. Triết học là “xa xí phẩm”. Ưu tiên là “lý luận Đảng”. Văn hào, thi hào nay cũng được phân cấp lại, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Leo trên cây đu đủ mà đái xuống cũng thành thơ, văn dạy trong trường. Đang là câu chuyện từ 47 năm trước - cứ thế ta đi - đến nay!

  May mà Karl Marx và Engels không chết yểu, người trên 60, người trên 70 mới lên “Thiên Đường Cộng Sản” thật sự. Nếu sống vào thời kỳ 47 năm đó, nếu còn trẻ, chắc “cười vui” vì lý thuyết Mác-xít của họ thật giá trị, được áp dụng thành công mà cười vui quá, khiến không đứt mạch máu mà chết, cũng trẹo quai hàm. “Vô sản chuyên chính” đáng hoan hô! Hàng triệu kẻ chết, để có vài chục tỉ phú CSVN với tên mới “Tư bản đỏ” là cũng lời chán!
 Chúng ta đau đớn thật nên chừ còn đau đớn. Dù đã 47 năm qua. Người ta quen miệng rồi, thì “con vẹt” lúc nào cũng chừng đó chữ nghĩa. Nhà Tần “đốt sách, chôn học trò” chỉ mấy đời tồn tại.
  Niềm ao ước của tôi là, văn hóa và nền giáo dục của thời kỳ trước 5/1975 có ngày trở lại. Tự nhiên, đạo đức xã hội cũng theo đó mà phục hồi, giống lại như xưa!

(Stone Mountain GA - April 2, 2022)
-----------------------------------------

49. CON ĐƯỜNG 20 NĂM
Một sáng sớm, hình như cuối tháng 7 năm 1954, đang còn kỳ “nghỉ hè” tại các trường, tôi đã dậy từ lúc nào. Đã nấu nước sôi, pha trà cho bà nội.

Cuối tuần nào, tôi cũng từ Bến Ngự lên Nam Giao, chăm sóc bà. Riêng trong 3 tháng hè thì “ở suốt” tại đồi Quảng Tế. Nhà thờ họ Trần được chuyển dời từ làng Tiên Nộn (bên kia sông, đối diện Bao Vinh). Đồi Quảng Tế được chú họ tôi mua 1 phần, và nhà thờ họ Trần được xây cất sát đường từ Nam Giao đi lăng Tự Đức. Nhà thờ làm xong giữa năm 1944..

Chái trái của nhà thờ họ, là chỗ bà nội tôi “đóng đô” từ 1948. Năm 1943, bà quyết định rời Thanh Hóa, nơi “chôn nhau cắt rún” của bà - lúc còn là “tiểu thư”, có bố là Đề đốc Thanh Hóa, và sống quãng đời ấu nhi + niên thiếu từ 1872 cho đến 1880. Rồi, những năm đầu của thập niên 80 của thế kỷ này (1880-1885), bà theo thân phụ vào Huế.  Ngay sau khi cố ngoại tôi tử trận năm 1885 tại cửa Đông Ba, Huế, trong trận chiến của triều đình chống Pháp, bà theo tàn quân chạy về Thanh Hóa. Suốt từ thời gian đó, đến khi lấy chồng, sinh con mãi đến năm 1943, bà nội tôi mới quyết định bán nhà, mà vào Huế. Bấy giờ bà đã trên 70, muốn “dưỡng già” dưới sự chăm sóc của cô con gái lớn nhất và cậu con trai thứ tư (theo thứ tự con cả, thứ 2, …của các con trai, gái ngoài Bắc). Hai người này có điều kiện chăm sóc mẹ. Gái lớn của bà làm dâu Tùng Thiện Vương.
  Các con khác đều đã lập gia đình, sống rãi rác : - Con thứ 2 (trai lớn nhất) sống với vợ, con tại Bình Định. Gia đình bố tôi (con thứ 5) vẫn sống tại Thanh Hóa. Em gái (thứ 6), kế bố tôi, lấy chồng, về Hải Phòng. Con thứ 3 (con gái) sớm lấy chồng, sống tại Hà Nội. Cô út (thứ 7) của tôi cũng sớm lấy chồng, sống tại Vĩnh Yên.

Tôi ở cùng bà nội bên chái trái của nhà thờ họ. Chái phải thì trước do chú họ tôi (Trần Thanh Mại) biến thành, vừa là “thư viện” với những giá sách, vừa là nơi tụ họp bạn bè (đa số là các nhà văn, thơ) những năm 1944-1947. Vì tình hình an ninh, chú tôi (hình như) làm tại nhà Đoan (Pháp), sống với vợ, con trong Thành Nội Huế, những năm sau. Và rời Huế năm 1952, đổi về Hà Nội.

Tôi yêu thích đồi Quảng Tế. Từ truyền thừa “Đồi Quảng Tế dày dạn với thời gian, xưa mặt bể hóa ngàn dâu, lại biến rừng xanh ra dặm tía. Nay thì đền cao cấp vót …”, cùng 1 câu khác, là 2 câu đối viết bằng chữ Nôm của chú họ tôi (ông đã là Thượng thư thời Bảo Đại - sau đổi là Bộ trưởng). Hai câu đối được viết trên 2 cột, 2 bên bức bình phong trước sân nhà thờ họ Trần. 1 chú họ khác của tôi, được giao chăm sóc nhà thờ. Ông bắt tôi học thuộc 2 câu đối trên.
  75 năm qua (1947), từ lúc buộc phải học thuộc lòng 2 câu đó, tôi vẫn thuộc đến nay.

Bấy giờ các phương tiện truyền thông đều hiếm tại nông thôn. Tôi ra sân trước nhà thờ họ, chợt thấy + nghe từng đoàn người đi ngang trước mặt. Họ đi từ phía Tây, có lẽ từ phía núi Kim Phụng, Bảng Lảng, Điện Hòn Chén … về thành phố. “Cờ đỏ sao vàng” + những tiếng hô vang “VM muôn năm”.
  Tôi chạy vội vào nhà “Bà, bà! VM rất nhiều đang đi xuống phố”. Tôi lại chạy lên gian chính - nơi chú, thím họ tôi ở - thì chú tôi bảo “Hết đánh nhau rồi. VM tập kết ra Bắc”.

Ngay trong ngày, tôi xin phép bà để xuống phố hỏi thăm tin tức. Ai cũng biết tình hình trong nước. Nhà cô tôi tại đường Trần Thúc Nhẫn, Bến Ngự. Tôi ở đó các năm 1949, 1950 - hiện cô ở với 2 cháu nội (gọi tôi bằng chú), đều lớn tuổi hơn tôi : Bửu Phương (trai) hơn tôi 5 tuổi, học đệ Tam C Quốc Học - Minh Đa (gái) hơn tôi 2 tuổi, học Đệ Tứ Đồng Khánh. Gia đình bác tôi ở 1B Khải Định, cách nhà cô tôi khoảng 1 km. Xôn xao bàn tán “Hòa bình rồi!”.

Mùa tựu trường 1954-1955 không đến với không khí bình thường. Tôi lên 4 ème A Pellerin (tương đương đệ Ngũ chương trình Việt). Có lẽ đất nước thay đổi, chính thể thay đổi nên ảnh hưởng đến tôi. Trước giờ, tôi được học bổng toàn phần (khoảng 300$VN) suốt các năm học từ 1948-1954. Niên khóa 1954-1955, tôi bị cắt học bổng. Chuyện này, tôi đã kể ở 1 bài viết khác (Thuở Học Trò Và Bạn Cũ).
  Hơn 1 triệu người ào-ạt từ Bắc di cư vào Nam, là đầu câu chuyện. Truyền miệng, báo chí, phát thanh … Từ Tết âm lịch 1955 trở đi, màu sắc + âm thanh của “thanh bình” đã tỏa khắp.
  Niên khóa 1955-1956 đã thấy xuất hiện 1 số học sinh “người Bắc” tại các trường công ở Huế. Sinh hoạt “thanh niên” từ qui mô của toàn trường, cắm trại các vùng quanh Huế như bãi biển Thuận An, dòng Thiên An, chùa Từ Hiếu, các lăng tẩm … đến các nhóm nhỏ 3-5 người thật nhộn nhịp.

Tiếc rằng thời điểm này, tôi chỉ thấy được sự thay đổi bất ngờ của không khí sinh hoạt tại Huế. Sau này mới qua tìm hiểu mà biết được - nhất là tại Sài Gòn - một sự biến đổi toàn diện của miền Nam VN, qua cuộc di cư khổng lồ của gần 1 triệu rưỡi người từ Bắc về Nam. Không biết có phải là “phồn vinh giả tạo” theo chính sách tuyên truyền của “Bên Thắng Cuộc” sau 1975 hay không, thì miền Nam quả thật là “lý tưởng” vào những năm cuối thập niên 50 (1955-1959).

Không thể phủ nhận “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” tại miền Nam VN suốt 2 thập niên 1954-1975. Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa cũng có chính sách này, phong trào này, với “Trăm Hoa Đua Nở”, qua Nhân Văn - Giai Phẩm vào 2 năm 1956, 1957. Nhưng rồi 100 hoa miền Bắc đều nở thành “hoa vạn thọ”, và tôi quên mất, người đứng đầu là Phan Khôi có đi tù không - mà Phùng Quán, Trần Dần, và rất nhiều người khác, có dính dáng đến, đều “mang cùm”.

Miền Nam VN không bạc đãi văn, nghệ sĩ. Thành phẩm cũng như số lượng người sáng tác, thật đáng kinh ngạc!

Nhưng phải trả giá! Cho dù ngày nay vẫn có những đả kích, nhưng số đông cho rằng họ và đất nước miền Nam VN đã chịu ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là ông Ngô Đình Nhu. Truyền thống đạo đức được duy trì. Văn hóa, giáo dục nâng lên tầm quốc tế. Kinh tế phát triển mạnh. Và mọi lĩnh vực khác đồng bộ được nâng cao.

“Thanh bình” không lâu. Những con sóng ngầm đã tỏ dấu từ vài năm cuối của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Rồi mãi về sau tìm hiểu, tôi mới biết những trở lực mà 2 ông Diệm + Nhu gặp phải, ngay từ những tháng đầu VN bị chia hai.
  Nếu bảo rằng cái giá cho địa vị cao nhất nước (Nam VN) của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ (ông Ngô Đình Nhu) là cái chết “tàn nhẫn” của họ, thì thật quá võ đoán. Quá nông cạn và “vô ơn” trước thành quả hết sức to lớn của miền Nam VN trên mọi lĩnh vực qua sự lãnh đạo của 2 anh em họ Ngô Đình.

Từ 1954 đến cuối 1963, đã là nửa con đường của lịch sử 2 nền Cộng Hòa miền Nam VN. Là đoạn đường tương đối ít “đồi phong bại tục”. Ít hối lộ và tham nhũng. Thế hệ trẻ quả thật có “lý tưởng”. Thế nhưng, sức người có hạn. Hai anh em họ Ngô Đình có muốn cũng không được. Đều ngoài tầm tay. Miếng bột phải theo ý người nắn. Đồ gốm phải theo ý thợ. Và phải bị quăng đi, sứt mẻ, đổ vỡ, khi “không được ưng ý”.

Nửa đoạn đường sau, e phải chờ rất lâu hơn, chờ lịch sử khách quan lên tiếng. Từ sau 1/1/1963 đến 30/4/1975, là đoạn chót của “con đường 20 năm”.
  Ai cũng thấy nhưng không dễ cho một nhận xét đúng đắn. Chỉ một điều khẳng định rằng “bàn cờ vui chơi” giữa mấy siêu cường lại là thế “tất yếu” mà những nhược tiểu phải theo. “Nỗi buồn nhược tiểu” là đó. Khói lửa chiến tranh, nhà cửa đổ nát, dân chúng chết chóc lầm than, chỉ trong chút ý tưởng và cái buông tay “xóa ván cờ và làm lại ván khác”. Đơn giản!

Viết trong ngày kỷ niệm “Phục Sinh”, JC sống lại. Nguyện ý nghĩa phục sinh được thực hiện trên toàn thế giới. Ao ước rằng thời kỳ 1000 năm sớm là đây. Trời mới đất mới mau chóng là đây!

(Stone Mountain GA - April 17, 2022)
---------------------------------------------

50. MỘT ĐÀN ANH, MỘT CHIẾN HỮU
(Bài này đã viết từ năm ngoái, 2021, để nhớ đến 1 vị Niên trưởng đáng mến. Bài đã có tiêu đề “MỘT NGƯỜI ANH”. nay tôi đổi thành “MỘT ĐÀN ANH, MỘT CHIẾN HỮU” như trên - và có viết dài thêm)

Anh tên Phan Tấn Mỹ, khóa 13 VBĐL. Chúng tôi biết nhau cách nay 8 năm (giờ là 9 năm). Dù cùng quân trường, nhưng chưa hề gặp nhau. Anh trước tôi 3 khóa. Khi khóa chúng tôi vào trường (1959) thì khóa anh đã ra đơn vị từ 1958. Theo truyền thống Võ Bị Đà Lạt thì các khóa đàn em đều gọi các khóa trước là “Niên Trưởng”.
  Chúng tôi quen biết nhau khi cùng có đóng góp comment trên Đàn Chim Việt online khoảng 2013. “Tri âm” không đợi nghe giọng nói nhau cả đời như vợ chồng, hằng chục năm như anh em, cha mẹ, bạn thân, v.v… Tôi với anh chỉ 1 lần qua phone. “Tri kỷ” cũng thế?
  Trong những comment với diễn đàn trên, tôi dùng 1 nickname. Anh có viết 2 bài, trong đó có bài “Bão Nổi Lên Rồi” với tên Ý Yên. Anh cũng hay làm thơ và dùng biệt danh đó.

“Qua rừng chợt thấy rừng vàng ối
“Thảm cỏ loang màu triền núi xa
“Cây hỏi ráng chiều, chiều chẳng nói
“Này thu sang đó tự bao giờ?

 “Từ lúc mây dâng xám nẻo trời
 “Ngỡ ngàng theo lá úa rời ngôi
“Buồn đi xa vắng về lay gọi
“Tà áo thu qua chẳng trả lời

“Ơi một tình thu hay ý thu
“Xôn xao trên ngưỡng cửa sang mùa
“Từ ly hoàng cúc len hồng cũ
“Để biết quen nhiều cuộc tiễn đưa

“Qua rừng chợt thấy rừng vàng ối
“Cỏ đã che mờ vết chiến xa
“Khói lửa đã tàn, thu vẫn đợi
“Vẫn một hành trang : nỗi-nhớ-nhà “ (Ý Yên “Một Lời Thu Gọi”, Bài 11 - SJ. 14/7/2013)

Bạn tôi - Bùi Quyền - đến Atlanta có việc, cùng thăm tôi, 2013. Anh Phan Tấn Mỹ - theo yêu cầu của tôi - nhờ Quyền đưa tôi 11 bài thơ, anh mới làm. Tôi thật ái ngại vì đã không hỏi chi tiết về những tập thơ anh đã làm, đã cho in. Anh giỏi tiếng Anh. Một số bài được viết dạng song ngữ (tôi chỉ đưa lên bản tiếng Việt).

Vào ngày 30/04/1975, anh còn chiến đấu (là Tiểu đoàn trưởng thuộc SĐ 18 BB). Chỉ buông súng khi Cựu Tướng Dương Văn Minh, Tổng Thống “vài ngày” của VNCH kêu gọi đầu hàng “Bên Thắng Cuộc”.
  Qua trao đổi, mới biết anh cũng đến Nghĩa Lộ, Yên Bái vào 1976, một lần với tôi. Cùng chuyến tàu thủy, cùng 2 chuyến tàu lửa (1 từ Bến Thủy, Vinh đi Hà Nội - 1 từ Hà Nội đi Nghĩa Lộ).
  Anh cũng qua Mỹ cùng năm với tôi. Thế mà khi cùng ở San Jose, 1992, lại không gặp + tìm hỏi thăm nhau với anh.
  Gần 2 năm biết nhau trên diễn đàn ĐCV, mới từng bước biết nhau. Anh nhầm tôi với 1 bạn cùng khóa với anh. Người này cùng tên, họ, chữ lót với tôi. Là cháu họ gần của tôi (dù lớn hơn tôi 3 tuổi). Và tôi cải chính.

Một comment của tôi (11/05/2013) viết “Thơ anh có hồn … Mong anh thêm những bài thơ. Bỏ đi những chuyện thời sự …”. Không lâu, anh reply tôi “Cảm ơn bạn. Tôi như đang còn đứng trên đỉnh Langbiang, nhìn ra 4 phương. Cũng như tôi đang ngồi bên song cửa trại giam kia, nhìn ra ngày mai” :

“Từ cửa trại giam “Hiện tại” nhìn
“Ngoài kia trời lặng nắng hoàng kim
“Tâm tư ào sóng lan vòng rộng
“Bắt gặp “Tương lai” chính lúc tìm “” (Ý Yên - 11/5/2013 at 11:06)

Chúng tôi có những thứ giống nhau. Là 1 quân nhân xuất thân từ quân trường Võ Bị Đà Lạt, ít nhất cũng có 1 lần đứng trên đỉnh Langbian (Lâm Viên). Ai lúc tuổi trẻ không có những giấc mộng lớn? Họ, những sĩ quan trẻ đó, đã từng trên đường đời, lên 1 điểm thật cao, là đỉnh đồi, đỉnh núi … mà nhìn về 4 phương.
   Rồi, “thua cuộc”, rồi, “súng gãy”. Họ giống nhau : nghìn dặm lưu đày. Tôi đã từng “Sau song sắt, ngắm ánh trăng đêm rằm”.
   Họ chỉ biết “Hiện Tại”. Buồn cho “Dĩ Vãng”, sợ “Tương Lai”. Hà nhật quân tái lai? Tôi xin gửi đến mọi người bài hát “Ngày Nào Anh Trở Lại?”. Chỉ mong tiếng hát của Đặng Lệ Quân.

27/5//2015 at 16:19, comment tôi viết (ĐCV online) “Các bạn … là những người đọc được bài “Khóc Ý Yên” của NTD. Bạn NTD khóc Ý Yên bằng 1 bài thơ, là những người sớm muộn có mối thân tình với Ý Yên. Tôi đọc từng chữ của những comment các bạn viết, không văn vẻ nhưng thấm thía trong tôi. Mới hơn 2 tuần trước, khi trò chuyện với NTD nhân bài Hoàng Hạc Lâu do Vũ Hoàng Chương dịch thơ, và có đề cập đến Ý Yên. Rồi 1 comment nào đó, bảo Ý Yên vừa bỏ cuộc chơi …”.
  Tôi sau đó hỏi Bùi Quyền, và được xác nhận anh PTM đã qua đời khoảng trung tuần tháng 5/2015. Anh là công giáo.

Những dòng này viết lên, thì lá vàng quanh nhà tôi đã đang rụng, chắc do “Thu phong”. Bài thơ 4 đoạn của Ý Yên viết 8 năm trước (nay là 9 năm) nhắc tôi 1 “tình thu”. Anh không cần phải viết “Vẫn một hành trang : nỗi-nhớ-nhà”. Anh trở về tự bao giờ rồi. Là “Sinh Ký Tử Quy”!

Bài này để lưu niệm, nhớ về anh : 1 niên trưởng, 1 chiến hữu - tôi ghi lại 1 bài thơ khác, không buồn như bài “Một lời thu gọi” trên. Bài sau đây nói về “Pleiku, mùa chinh chiến”

“Phố hẹp đường vòng dan díu nhau
“Hàng cây trong gió bấc nghiêng đầu
“Bước đi chào bước về thân mật
“Tỉnh nhỏ thời gian chẳng đổi màu

Khoác áo bốn mùa tôi đến đây
“Tình cờ tôi được chuốc men say
“Bốn phương trước lạ sau quen đó
Góp lại niềm vui tỏa ứ đầy

“Thiếu nữ xem duyên trước kính đài
“Có mưa rây nhẹ làm run vai
“Nắng lên! Cho bụi hồng thoa phấn
“Cho áo người con của dặm dài

“Ta yêu tỉnh nhỏ, chim yêu rừng
“Cửa sổ đêm nào còn mở tung
“Phố xá làu tên tình quyến luyến
“Mời ta giang rộng đón tay vòng

“Mái ngói chạy dài ghé sát nhau
“Cao nguyên luôn ướp đậm hương màu
“Đèn vừa đủ sáng cho thư đọc
“Đủ sáng cho hồn không đêm thâu

“Bao số nhà ghi chiều chẵn, lẻ
“Bấy nhiêu tâm sự gửi cho em
“Hỡi người thanh nữ bên thành nhỏ
“Có cảnh đẹp nào không trái tim?

“Tôi sợ thời gian gây nhớ nhung
“Muốn yêu Hiện tại đến vô cùng
“Cố ghi âm lấy lời thầm ước
“Thu cả hương yêu tận đáy lòng “”(Ý Yên, BÀI THƠ TỈNH NHỎ, Quà tặng Quê Hương)

Gần 6 năm rưỡi tính từ ngày anh qua đời. Với tôi, anh không chỉ là 1 đàn anh. Anh còn là bạn. Chưa tiếp xúc, nói chuyện với nhau nhiều, nên chưa là “tri âm”. Nhưng hiểu anh, tôn trọng anh, và anh đã là 1 “tri kỷ” của tôi rồi! (Chớm thu 2021 - Stone Mountain GA - Sept. 23, 2021)

Viết lại từ “MỘT NGƯỜI ANH” đổi thành “MỘT ĐÀN ANH, MỘT CHIẾN HỮU” - tôi ghi  thêm 1 bài thơ nữa của anh, để giúp anh lưu niệm một thuở “Pleiku, mùa chinh chiến”. Và cũng nhớ đến người đã mất, từ 7 năm qua (2015-2022).

(Stone Mountain GA - June 27, 2022)
------------------------------------

51. AI LÀ KIỀU ?
“Kiều” đây không phải “Nhị Kiều” của Đông Ngô (Đại Kiều vợ Tôn Sách, và Tiểu Kiều vợ Chu Du). Thi sĩ Đỗ Mục, đời Đường, Trung Hoa có viết “Đông phong bất dữ Chu lang tiện - Đồng tước xuân thâm tỏa nhị Kiều” (Nếu Chu Du không được gió đông, viện Đồng tước (của Tào Tháo) trong cảnh xuân thâm nghiêm đã giữ lấy 2 Kiều).
   Tôi không muốn nói về 2 Kiều đó.

Tôi ví Kiều như cô gái VN. Chuyện lịch sử VN rõ nét chỉ 2000 năm trở lại. Kể từ khi “Bà Trưng quê ở châu Phong - Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên”. Thăng trầm với các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn không ngừng nghỉ với bao cảnh “loạn trong giặc ngoài”.

Chỉ nói trong vòng 80 năm nay thôi, sau đệ Nhị Thế chiến, cô gái VN đã quá vất vã. Trong nhà, cô phải chịu cảnh 2 chồng : chồng Nam chồng Bắc. Cô còn bán thân để nuôi con. Có những tên Sở Khanh. Nói rõ ràng là Tàu, Nga, Mỹ.

Một đoạn Truyện Kiều do Nguyễn Du viết. Kiều buộc phải “xuất gia” thành nữ tu tại Gác Quan  m. Thúc Sinh ăn quen bén mùi, lại lân la tìm đến, nhưng chỉ để than thở : (câu 1971, 1972)
“Liệu mà xa chạy cao bay - Ái ân ta có ngần này mà thôi”

Kiều của giai đoạn 1954-1975 không thể làm như Thúy Kiều của Nguyễn Du. Cô gái VN của 47 năm trước, lòng tan nát. Kẻ ở người đi, để 10 năm tình cũ “hai bờ đại dương”. “Tù lưu đày nghìn dặm”. Tôi đã viết để tưởng nhớ 1 người bạn - là nạn nhân rất đau thương trong hoàn cảnh đó, bài “MÙA XU N NÀO EM CÒN NHỚ”. Là Cựu Trung Tá Huỳnh Văn Lượm (K17 VBQGĐL), Lữ đoàn phó TQLC thuộc QLVNCH.

Chút khác nhau giữa 2 Kiều trên, thì có câu nói lên tâm trạng của Kiều - và cũng là tâm trạng của Nguyễn Du - lại cũng là tâm trạng của Kiều “tân thời”, là cô gái VN : (câu 1975, 1976)
“Dẫu rằng sông cạn đá mòn - Con tằm đến thác cũng còn vương tơ”. Mượn ý của câu “Xuân tàm đáo tử ti phương tận - Lạp chúc thành hôi lệ thủy can” trong “Vô Đề” của Lý Thương Ẩn, đời Đường, Trung Hoa - thi hào Nguyễn Du không hạn chế lòng Kiều, lòng mình chỉ ở tình cảm nam + nữ, mà ông đi xa hơn với câu trước “Dẫu cho sông cạn đá mòn”.
   Là sự kiên định.

Không phải ai cũng “bỏ của chạy lấy người” bằng cách “Liệu mà xa chạy cao bay” rồi quẳng hết vào dĩ vãng. Chạy trốn có nhiều cách. Ra nước ngoài : chính thức (với nhiều điều kiện), và lén lút (vượt biên, vượt biển - cần tiền, chịu nhiều nguy hiểm, tổn thất, ngay cả tính mạng). Nhiều người cao tay : trốn an toàn nhất, chính là ẩn núp ngay tại “trung tâm sinh hoạt của kẻ thù”, v.v…
   Tôi tìm lại một số hiện tượng quanh ngày 30/4/1975. Khoảng ít tuần trước, trên FB có đăng hình sinh viên VN du học tại Pháp (Paris), xuống đường vào 27/4/1975. Họ để tang cho VNCH. Và nếu tôi còn nhớ, thì cầm đầu số sinh viên, có Trần Văn Bá.

Trần Văn Bá đương nhiên tranh đấu, phần vì “thù nhà” - 7 người thân của anh đã bị CSVN ám sát, nhưng chắc chắn phải có “hận nước”.Và tâm trạng của Minh Đức Hoài Trinh là gì, với bài thơ được phổ nhạc “Ai Trở Về Xứ Việt”? Bà thương cho xứ sở tan nát vì chiến tranh? Cảnh “nồi da xáo thịt”? Cảnh cả triệu người đi “học tập cải tạo”? Cảnh vợ xa chồng vì “chồng không biết ngày về”? Cảnh “nghìn dặm lưu đày”? Cảnh tù bị áp bức, đói khát cùng cực? Và chắc còn nhiều câu hỏi đặt ra cho 1 nhà tranh đấu như bà - suốt cả cuộc đời mình.

Trần Văn Bá vẫn kiên định, không chờ “sông cạn đá mòn”, và chỉ 10 năm sau đã cho ta thấy câu trả lời của anh. Cùng với Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, với lòng kiên định, cả 3 người họ chịu án tử hình. Vẫn còn hô “VNCH muôn năm” trước khi bị bắn chết.
   Là câu trả lời “tằm xuân có thác” thì lòng yêu nước của họ “vẫn còn vương”. Chúng ta không bao giờ quên được các anh. Ngày xử bắn : 8/1/1985.

“Kiều tân thời” cũng đã lắm lúc muốn nhảy xuống sông Tiền Đường khi cõi lòng tan nát. Suốt nửa thế kỷ qua, đất nước vẫn phù phiếm, đạo đức đồi trụy, văn hóa “lai căng”. Hình chữ S thu ngắn, hẹp, khu vực biển + đảo thành khu “lưỡi bò” của bá quyền nước lớn. VN vẫn còn là “cục bột mềm” dễ nắn.

Người Việt trong nước, người Việt hải ngoại còn chút ưu tư? Tơ có còn vương khi tằm trút bỏ sinh khí?

(Stone Mountain GA - April 12, 2022, edited on June 28, 2022)
---------------------------------------

52. CÀ PHÊ ĐẮNG TRỞ LẠI
Hôm nay lên FB - trước mặt là ly cà phê sữa. Những Group. Page - những tên người cứ theo ngón tay tôi mà lướt lên. Bấm “like” một số chủ đề. Vài comment. Vào FB một Group quen thuộc, đọc 1 chủ đề : “Yesterday at 8:09 - Hằng năm cứ vào ngày 26 tháng 3 giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế, tất cả các khối học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 từ thành thị tới thôn quê đều tổ chức hội trại học sinh. Có những trường thì cho tổ chức cắm trại cho học sinh trước 1 tuần, có những trường thì cho học sinh cắm trại cùng ngày 26 tháng 3 để chào mừng giải phóng quê hương”.

Cà phê thực chất vốn đắng, nhưng rất nhiều người thích nó. Chính là thích uống, thích nhấm-nháp. Tôi cũng đã nhiều lần uống cà phê Starbucks, mùi vị thơm ngon của loại cà phê này đã biến vị thành dễ chịu.

Suốt 12 năm kể từ lúc tôi nghỉ việc ở tuổi 70 thì sáng nào vợ tôi cũng làm 1 ly cà phê sữa cho tôi.
   “Sữa” là sữa bột “Nestle - coffee mate”. Cà phê thì “Columbian product”. Cả 2 thứ đều mua tại Costco. Mỗi tháng hết 2 pound sữa bột, và 3 pound cà phê. Còn đường thì chỉ dùng đường hóa học SPLENDA đã gần 20 năm nay. Cứ vậy mỗi sáng.
   Đắng miệng nhưng không đắng lòng!

Tôi đang ráng nhớ mình lần đầu uống cà phê tự bao giờ. Thời học sinh, đôi lúc do bạn mời mọc hoặc có khi có tiền, cũng có thể có dịp uống cà phê, nhưng tính tôi “hảo ngọt” - nhất là ở Huế bấy giờ nổi tiếng về chè - nên tôi chỉ thích chè. Chè đậu ván, chè đậu xanh (có mấy loại), v.v… “Đậu hủ” với đường đen (thắng thành nước đường + chút gừng) từ những gánh bán hàng rong (thật hết sẩy!)

Mà sao tôi lại nói về cà phê? Sao tôi lại kể thời học sinh? Ở Huế? Thật tình trong thâm tâm tôi có suy nghĩ rằng, kể từ thuở “tò mò” học sinh, rồi lớn lên và trưởng thành hơn - thì những thức ăn, thức uống không đơn thuần chỉ là “bổ dưỡng” thân thể, mà còn thể hiện một khuynh hướng suy nghĩ, tâm lý, đối xử nữa.

Tôi không muốn nói đến những người quá “đặc thù”, suốt đời chỉ muốn “ăn lạt”, “ăn chay” - chỉ uống nước (trắng, thường) đun sôi mà thôi. Có nhiều người thích uống cà phê, trà, rượu, bia, v.v… Nhiều người chỉ thích trà. Chỉ thích rượu. Có người thích “đủ loại”. Riêng phần tôi, có phân biệt. Thời học sinh chỉ “hảo ngọt”, thích “chè”. Những thay đổi, tôi sẽ tùy lúc mà giải thích.

Chỉ khi nhập ngũ, chân bước vào trường VBQG tại Đà Lạt, tôi mới làm quen với cà phê. Hai tháng đầu, dù trong trường có câu-lạc-bộ, tôi vẫn không thích cà phê. Nhớ ra  điều này, tôi sáng mắt ra mà suy rằng mình chưa từng uống cà phê trước kia (nghĩa là thời học sinh, ở Huế). Khám phá đó khiến tôi “khen tôi” quá. Bộ nhớ của mình thật super! Tôi vỗ vào đầu mà khen nó : “còn tốt”.

Cuối 1959 (23/11) nhập học quân trường VBQG tại Đà Lạt - qua 2 tháng (8 tuần sơ khởi) chỉ bị “hành xác” theo “thủ tục”, T N KHÓA SINH không dám “hưởng thụ”, chỉ biết “vâng phục, tuân lệnh” không cần biết lý do. Rồi, đầu 1960, thư thả hơn khi Alpha được gắn, và được vào qui chế “chính thức”. Ta có thể “dạo phố” (nếu không đến phiên trực, hay bị kỷ luật).
  Thế là tôi cũng như các bạn cùng khóa, “bát phố”. Theo các bạn lần đầu dạo phố Đà Lạt đầu xuân (dương lịch). Ngoài những tiệm “phở”, 2 tiệm cà phê “Kinh Đô” và “Tùng” đều đầy “phe ta”. Bây giờ tôi không thể nhớ cảm tưởng của mình lúc ấy, khi bắt chước bạn, gọi ly cà phê đen. Nhưng mà chắc chắn đắng. Cà phê rõ ràng đắng!
   Vì đắng lúc nào cũng vẫn còn với cà phê, nhưng uống quen dần, ta sẽ không còn thấy “khó chịu”. Thì cũng như chất “cay nồng” của rượu - nhất là rượu “đế” với độ cao - vẫn có người ghiền. Nên ghiền cà phê cũng là 1 cách nói.

Thế là trong óc tôi nảy sinh 1 suy nghĩ. Còn trẻ, người ta hay nóng nảy, hành động thiếu suy nghĩ. Chỉ thích người khác khen mình, không chịu bị chê…Nên tôi “hảo ngọt”. Hoặc giả, đã quá quen, nên ghiền - hay, bị người khác thuyết phục, hết ngày này đến ngày khác, khiến ta thiếu suy xét. Than ôi, đã thành “quán tính” với độ cao “đỉnh”, đến nỗi “vị giác” của ta đã “không còn chính của nó nữa”. Đó là cách “trồng người 100 năm của Bác Hồ kính yêu”!

Trở lại việc đọc trên FB một chủ đề viết hôm qua mà tôi trích 1 đoạn, nói về học sinh Huế những ngày giải phóng quê hương của họ là Thừa Thiên Huế vào ngày 26 tháng 3 hàng năm.
  Cô học sinh viết đoạn văn đó, nói lên nỗi lòng, suy nghĩ trên vị trí của 21 năm trước, từng là học sinh lớp 4. Nghĩa là lúc ấy, cô chỉ khoảng 10 tuổi - hẳn cô ta sinh vào 1990 trở về sau. Thì cô ta biết gì về chiến tranh VN? Đâu là sự thật?
   Ai cảm thấy đắng thì cô không biết, còn cô - con đường từ 1990 đến nay (2022) đầy “hoa thơm cỏ lạ”, là “Thiên đường Cộng Sản” đúng nghĩa. Cháu ơi, cứ đi tiếp 6, 7 chục năm nữa đi, cho đủ 100 năm trồng người của bác Hồ, rồi viết tiếp!

Chuyện những tháng ngày của các tháng 3, 4 năm 1975 thì đã có 3 khuynh hướng rõ rệt :
  (1) Bên Thắng Cuộc thì gọi là ngày “giải phóng” (còn bảo giải phóng khỏi Mỹ thì cần phải đặt lại vấn đề - chính họ + Mỹ cuối cùng hầu như là 1 phe, và Mỹ đã theo cam kết rút lui kể từ 1973 - hơn nữa, nhiều người khác lại còn mong họ “giải phóng khỏi Tàu” nữa, mới trọn vẹn),
  (2) Bên Thua Cuộc không đặt vấn đề cách gọi của bên kia, chỉ tự mình đặt cho nó cái tên “Tháng 4 đen” - và sinh viên VN du học tại Pháp đã chít khăn tang trắng 3 ngày trước khi VNCH hoàn toàn sụp đổ,
   (3) Tôi tôn trọng khuynh hướng thứ ba - ai thắng ai thua, thì những người này (họ đứng giữa, chịu đựng nhất, tổn thất nhất) chính là “nạn nhân” đúng nghĩa.

Vậy, cảm thấy cà phê “đắng” có 2 trường hợp : (1) đắng nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu, (2) đắng trong đắng ngoài - đắng cách khó chịu.

Tưởng đã quen và thích cà phê, thế nhưng 1 ngày đầu tháng 11 của năm 1963, tôi và 2 bạn thân : Cương và Gioang - từ 1 quán bar tại Đà Nẵng, cùng ngậm ngùi. Hai tên kia đều uống bia. Tôi uống cà phê đen. Thường thì tôi cũng uống bia như các bạn. Tôi không muốn say để quên. Tôi muốn cảm sự đắng để còn “tỉnh táo” nhìn.
  Nhưng đã quên nó đắng, thì nay cà phê trở nên đắng, và đắng hơn - ngoài thực chất chính nó. Đệ Nhất VNCH cáo chung với cái chết của 2 anh em họ Ngô Đình.

Cà phê thì vẫn uống, rồi cũng nhiều lần “đắng trở lại”. Những xáo trộn trong nội bộ lãnh đạo VNCH những năm sau 1963, bàn cờ thế giới đổi thay mặc cho sự bóp thả trong bàn tay các siêu cường. Cuối cùng, cà phê “không đường” suốt các tháng 3, 4 của năm 1975 cho “Bên Thua Cuộc”.

 “Bên Thắng Cuộc” không uống cà phê. Họ “quá no” vì vật chất cướp, lấy được từ cả miền Nam VN đã giúp “Tư Bản Đỏ” có vài chục Tỷ phú đô la Mỹ (trên danh sách thế giới), hàng ngàn “đại gia”, tiền liên tục chất đầy băng Thụy Sĩ, và nhiều hình thức khác. “Bên Thắng Cuộc” chỉ “say máu quân thù”, và chỉ biết “uống … quân thù”.

47 năm sau, 1 đoạn viết ngắn - thật vô tình - của 1 cô gái, vốn đơn thuần. Cô ta cũng không hẳn trong phe “Thắng Cuộc”. Ngược lại, cô ta đang khốn đốn vì cuộc sống hiện nay. Đối diện những “bất công” - và đang lên tiếng thở than.
  Và chúng tôi, và riêng tôi, là những người thua cuộc “tưởng rằng mình đã quên”, thì chính họ, họ vẫn tiến hành chính sách “trồng người” của họ. Vẫn gieo rắc oán thù!
  Cà phê đắng trở lại!

(Stone Mountain GA - March 27, 2022, edited on June 28, 2022)
--------------------------------------

53. VẪN NÚI XANH, VẪN RÁNG CHIỀU HỒNG
Dương Thận khi đề bút cho Tam Quốc Diễn Nghĩa, chắc ông không mâu thuẫn khi viết bài “Lâm Giang Tiên”. Tôi viết lại bài này (cùng lời dịch thoát của tôi theo thể thất ngôn bát cú - nhưng không theo Đường luật)

“Cổn cổn Trường giang đông thệ thủy
“Lãng ba đào tận anh hùng
“Thị phi thành bại chuyển đầu không
“Thanh sơn y cựu tại
“Kỷ độ tịch dương hồng
“Bạch phát ngư tiều giang chữ thượng
“Quan khán thu nguyệt xuân phong
“Nhất hồ trọc tửu hí tương phùng
“Cổ kim đa thiểu sự
“Đô phó tiếu đàm trung “”(Lâm Giang Tiên - Dương Thận, Minh triều, Trung hoa)

Tôi dịch thoát :
“Trường giang cuồn cuộn chảy về đông
“Sóng thời gian cuốn sạch anh hùng
“Thành bại đúng sai đều huyễn mộng
“Vẫn núi xanh, vẫn ráng chiều hồng
“Ngư tiều tóc bạc trên sông ngắm
“Chỉ vẫn là thu nguyệt xuân phong
“Một vò rượu nhạt cùng vui nhắm
“Sá chi nào thế sự đục trong “” (Stone Mountain GA - 2019)

Viết câu “Thanh sơn y cựu tại - Kỷ độ tịch dương hồng”, Dương Thận ý muốn nói, vạn vật vẫn thế, vẫn y nguyên, không chút gì thay đổi. Không phải ông không biết “Tang điền biến thương hải”, rồi “mặt bể hóa ngàn dâu”. Thế gian đều là “vật”, làm sao “trường tồn”?

Hay là Dương Thận “vốn là 1 khoa học gia”, là “vật lý gia”? Người ta cho 1 định luật “bảo tồn” của vật chất. Một lượng nước, dù có bốc hơi, phân chất thành Hýt-rô và Ốc-xy, bay muôn phương vẫn duy trì cùng số lượng khi bằng cách này cách khác kết hợp lại.
  Hay cụ thể hơn, 1 miếng gỗ (10 gram) đốt thành tro than. Nó không mất chút nào khi ta thu lượm được tất cả yếu tố từ nó : khí Các-bon + ít khí khác (ví dụ hơi nước gồm O, H khi miếng gỗ chưa khô hẳn) + số lượng tro …

Hay ông ta là một triết gia hiện sinh theo bước Kierkegaard, Camus, Sartre - hay ông, cũng như tôi, thích thần học gia Paul Tillich, mà mặc cho ngoại cảnh đổi thay, vẫn áp dụng “tính chủ thể” (subjectivity) cho suy nghĩ và kết luận của mình? Khi ta có ấn tượng rằng ngôi nhà cũ (đã biến mất hiện nay) “hình như” đang xuất hiện trong tâm tưởng ta, thì nó “vẫn còn” đấy thôi!

Hay là gì đi nữa, thì Einstein cũng có lý do để đưa ra thuyết “tương đối” của mình. Cao Bá Quát cũng đã an ủi ta “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”. Lòng ta vẫn yên, thì sá chi 3 nước cuối thời Đông Hán cứ xoay tròn như chong chóng. Ngụy, Thục, Ngô là cái gì? Chỉ là các con cờ của Tạo hóa. Hết bàn cờ này, thì bàn cờ khác được bày lại. Cái vô cùng, cái bất biến chính là “sự tình”.

Là cái được, mất. Chúng bất biến. Là hòa bình và chiến tranh. Chúng bất biến.

Ngồi nghe mấy đứa con kháo nhau về tình hình chiến tranh Nga và Ukraine. Chúng hỏi tôi vài điều. Tại sao? Tại sao? Cũng có đứa tuổi gần lục tuần. Tranh cãi (chứ không tranh luận) nhau chỉ vì nghe nguồn tin này, nguồn tin nọ.
  Tôi suy nghĩ, có nên trao đổi với các con mình rằng - bọn chúng còn thì giờ - hãy cứ chờ ít lâu, tình hình sẽ ngã ngũ. Dĩ nhiên sẽ không có chuyện là “nguồn tin này chê nguồn tin kia sai”. Chúng đều là “cá mè một lứa”. Cách mưu sinh của chúng là như vậy. Cũng là “sự bất biến”.

Tôi muốn đi xa hơn một chút. Lấy con người làm điển hình. Tôi không rành về Phật pháp, các giáo lý của những tôn giáo khác, nên không lạm bàn. Tôi muốn nói một ít về giáo lý Cơ đốc.
  Kinh Thánh của Cơ đốc giáo nói về sự tạo dựng “người”. Đức Chúa Trời nặn ra con người từ bụi đất, (hà hơi) ban cho nó 1 linh hồn. Từ đó truyền đời, con người vẫn là con người. Khác với các loài vật : cá vẫn là cá, chim vẫn là chim, v.v…

Mặc những thay đổi của con người, xã hội loài người, thì sự bất biến (thể xác + tinh thần + linh hồn) của con người là điều khẳng định. Dù Darwin muốn bẻ cong nguồn gốc con người khi đưa ra “thuyết tiến hóa” với nhiều lý do (sự sàng lọc, tính ngẫu nhiên, v.v…), thì những thí nghiệm kéo dài mấy trăm năm sau (kế tục với các đồ đệ, follower của ông) thất bại. Khỉ vẫn là khỉ, không biến thành người!

Giáo lý Cơ đốc chủ trương “yếu tính/essence” con người bất biến. Theo Kinh thánh Cơ đốc, con người sẽ theo “mô hình” của JC mà được biến hóa sau khi Chúa tái lâm. Thể xác con người bấy giờ là “thể mới, khí mới”. Mới như thế nào thì chúng ta không được cho biết.

Rồi, cũng trao đổi về ý nghĩa “trời mới, đất mới” trong Kinh thánh Cơ đốc, các thần học gia vẫn còn chưa thống nhất. Đa số vẫn cho rằng mọi sự “mới” đều giữ nguyên “yếu tính”.

Chỉ là phiếm luận mà thôi về “sự bất biến + sự đổi thay” cùng trong một đối tượng. Nói cho cùng, thảy đều là tương đối. Tôi chợt nghĩ đến 1 câu giải thích của 1 thần học gia về những tranh luận trong khuôn khổ “biện chứng pháp” (dialectic). Có nhiều loại biện chứng pháp, tôi chỉ nói về biện chứng pháp thuộc thần học (dialectical theology). Ở đó không có YES, cũng không có NO - mà mọi cuộc tranh luận chỉ nhằm góp phần đưa đến “lẽ thật” (truth).

Rồi nữa, theo tôi nghĩ, có phải từ trong bất biến, ta tìm thấy sự đổi thay. Và cũng bởi lẽ ấy, mà có sự đối nghịch, trong đổi thay có sự bất biến. Không lẽ trong cái “hữu hạn” ta lại có cái “vô cùng”? Mà cũng chính là lẽ thật, rằng, mỗi “cái tôi” xem tầm thường, vô giá trị kia, lại là duy nhất, độc nhất trong hàng tỉ, tỉ con người của hàng bao nhiêu ngàn năm trước cho đến đời đời về sau.
  Tính “cá thể” (individuality) này đã là nền tảng cho thuyết “Nhân Vị” của ông Ngô Đình Nhu (cho riêng tôi 1 phút tưởng niệm vị cố vấn lỗi lạc và yêu nước này).

Ta có thể “đồng dạng hóa” định luật “bảo tồn” của vật chất với sự bảo tồn 1 cá nhân con người hay không? Khi hiểu Kinh thánh Cơ đốc, rằng khi tận thế, mỗi người đều “trở lại” nguyên vẹn, để chịu phán xét sau cùng. Chắc không ai thắc mắc, rằng khi chết (lần đầu) thì móng tay của ngón út người ấy dài 1 cm, vậy khi sống lại và chịu phán xét sau cùng, độ dài của móng tay cũng là 1 cm?
(Chết lần 2 là cái chết đời đời sau sự phán xét sau cùng đối với người “bị kết án phạt” - theo niềm tin Cơ đốc giáo)

Vậy sự bất biến từ chủ đề bài viết, dẫn ta chiêm nghiệm giá trị của 1 cá thể. Dưới con mắt của Thượng Đế, mọi người đều “bình đẳng” (equal). Cá thể đây, là cá thể con người!

(Stone Mountain GA - June 29, 2022)
------------------------------------------

 54. MỘT HỘI NGỘ

Ngạc nhiên khi trao đổi câu chuyện với các bạn “Niên đệ”. Bạn này bảo tôi đã 76, bạn kia 75. Tôi tự hỏi, hóa ra mình “còn trẻ”?

Có 3 niên đệ thuộc khóa 25 VBQGĐL. Theo “tính nhẩm” thì họ phải nhỏ hơn tôi 9 năm. Các bạn “trẻ” của tôi, dĩ nhiên không trẻ chút nào. Vì rằng ngày xưa, họ đều là các cụ “thượng thọ” của những bậc thất tuần trở lên. Thế nhưng, gặp nhau đây, họ đều “hồi xuân”. Dĩ nhiên đối với tôi, họ - ít nhất - rất kính nể.

Các bạn trẻ này, ra nước ngoài, đều thành đạt. Trẻ, kiến thức rộng, học lực cao - họ dễ thành công.

“Tình tự Võ Bị” là câu nói thường lặp đi lặp lại giữa những quân nhân xuất thân từ trường mẹ “Võ Bị Đà Lạt”. Đến nay, “tình” đã lạt đi rất nhiều. Trong 1 bài viết mới đây của tôi trên Trang FB cá nhân - viết ngày 29/6/2022 - với đề tài “VẪN NÚI XANH, VẪN RÁNG CHIỀU HỒNG”, tôi có nói về sự “hay thay đổi” và sự “bất biến”.

Có phải Trang-tử đã kinh nghiệm nhiều về “tình đời” mà ông đã viết “Quân tử chi giao đạm nhược thủy”?
  Tác giả NAM HOA KINH chắc “chán đời”? Lúc thì quạt mồ vợ để cỏ xanh sớm mọc cao, để ông an tâm “tìm người mới” - lúc thì “dở dở ương ương” không rõ mình là “bướm” hay “Trang sinh” đây?

Tôi và gia đình moving từ NY đến GA cuối 1998. Vội (1) tìm ngay các bạn đồng khóa (hiện ở GA) - mục này, tôi khi có dịp sẽ khai triển nhiều hơn - (2) tìm đến Thái Ồi Xiếng - cùng khóa, cùng Đại đội 1 SVSQ năm 1960, và nhất là hiện nay, bạn ta đang là Hội trưởng hội “Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Đà Lạt GA” - là chuyện 24 năm trước, là “vật đổi sao dời”. Mong người “trường cửu”, nhưng mấy ai tuổi đến 100?

Hội nào, tổ chức nào, đoàn thể nào mà không có bất đồng? Sinh hoạt với hội CSVSQ ĐL GA từ năm đó đến nay - dĩ nhiên có năm tôi không sinh hoạt vì lý do riêng - thì “tương đồng” vẫn nhiều hơn, và thắng “dị biệt”.

Hôm qua, 2 vợ chồng tôi đến sớm nhà bạn Oánh. Bạn là khóa 30, đã thụ huấn tại Trường VBQGĐL hơn 1 năm. Vẫn chưa phải là “đèn đỏ”, vì còn khóa 31 mới gắn Alpha xong. Oánh mấy năm trước bị tai biến ? , và từng bước phục hồi - đã tình nguyện nhận nhiệm vụ “Hội Trưởng” đã khá lâu.

Tôi có lần viết về cơ sở Trường VBQGĐL - được xây dựng trên đồi 1515 từ năm 1960. Đầu năm 1961, chúng tôi (3 khóa : 15, 16, 17) từ vị trí trường cũ mà dời sang chỗ trường mới.
  Hơn 10 năm trước, tôi có dịp về VN - có lên thăm “ngôi trường cũ”. Đã trở thành “khu vực cấm”, chỉ đứng xa xa mà chụp ảnh. Coi như trường cũ - không phải biến mất - mà đã được “đổi chủ”. Thì cũng coi như “xong”.
  Tôi biết còn rất nhiều người vẫn để lòng với quân trường cũ này, và dù trong nhiều hoàn cảnh - dù khắc nghiệt nhất, như trong tù - họ vẫn tìm đến nhau. Nói nhiều hay ít không quan trọng, nhưng mừng vì biết “bạn mình còn sống”.
  Và rằng, trường cũ có BIẾN MẤT vì đổi chủ, thì trong lòng họ, quân trường vẫn BẤT BIẾN. Y như tôi đã viết với đề tài mấy hôm trước (Vẫn Núi Xanh, Vẫn Ráng Chiều Hồng), một đối tượng có thể có 2 trạng thái : “bất biến” và “đổi thay”.

Trở lại với cuộc “hội ngộ” hôm qua tại nhà niên đệ Oánh. Đến sớm hơn tôi có 2 niên đệ, là Thoại và Khoa (đều là khóa 25). Họ kính nể tôi, chính yếu là “tình tự Võ Bị Đà Lạt”, tôi là “đại, đại niên trưởng” của họ. Họ cũng “kính lão đắc thọ” - chưa ai trong số họ chạm đến cửa ngõ 80.
  Bình (khóa 25) đến tiếp sau. Bạn ta là cựu phi công chiến đấu (A37 hay F5). Rồi Lý (khóa 22B), rồi Ban (khóa 30). Dương (khóa 21 - nhà thơ, nhạc). Hiền (k30).
  Hội trưởng Oánh mời mọi người đến bàn dài, bắt đầu những thủ tục “hội ngộ”. Có 7 “phu nhân” kể cả vợ tôi - “người tình trăm năm” của tôi cứ tưởng mình còn trẻ, cười luôn miệng. (Chị KL! Trong số 7 “mệnh phụ phu nhân” này, chị là người lớn tuổi nhất đó - mới 80)

Mọi người ổn định chỗ ngồi. Oánh nhân danh “Hội trưởng” có vài lời. Ngay sau dứt lời, Oánh mời mọi người “có thực mới vực được đạo”, hãy đến lấy thức ăn, uống. Bạn Dương phản đối, yêu cầu thủ tục không thể như đi máy bay chợt “vù”, mà phải lấy “đà”. Nhìn quanh thấy không ai “già khóa, già tuổi” như tôi.
  Thế là khước từ không được, tôi vội “vài lời”. Lẽ ra Niên trưởng Tâm (Cựu Trung Tá Hồ Tâm - khóa 11 VBĐL, trước ở LLĐB), là “lớn nhất” nhưng vì chưa đến kịp, nên tôi tạm thay mặt mà tiếp lời Hội trưởng. Tôi đề nghị chụp ảnh chung. Thế là chụp ảnh. Rồi lấy thức ăn, rồi nói chuyện. Niên trưởng Hồ Tâm - chắc với lý do đêm qua dancing mệt nghỉ, nên dậy trễ. Mọi thủ tục buổi sáng đều trễ. Và đến trễ. Nhưng kịp lúc “cùng mọi người lấy thức ăn, uống”.

“Tình tự Võ Bị” không cần những nhiêu khê. Muốn nhẹ nhàng thì rất nhẹ nhàng. Mà in sâu. Người ra trường từ 65 năm trước (anh Tâm), người từ 60 năm trước (tôi), và các niên đệ … Chúng tôi “tương đồng” với nhau. Để từ 24 năm qua, lần đầu sinh hoạt với hội, chúng tôi vẫn “chi giao đạm nhược thủy” cho đến bây giờ.
(Ảnh chụp chung hôm qua xin được đính kèm)

(Stone Mountain GA - July 4, 2022)
------------------------------------------

55. CẢM XÚC NHẤT THỜI
Tôi không quên những tháng ngày đầu năm 1947. Bấy giờ nhiều gia đình gồm con, cháu (của chú họ tôi, cô ruột tôi) tản cư từ thành phố Huế, lên Nam Giao. Nhà thờ họ Trần mới làm xong 3 năm trước, không đủ chỗ cho - không dưới 40 người lớn + trẻ con - nên bác ruột tôi phải thuê trai tráng quanh xóm dựng lên 1 mái tranh lớn sau lưng nhà thờ.
  Từng đoàn thanh niên trai trẻ, sáng sớm từ phía Tây của Huế, đi ngang qua nhà thờ họ, tiến về thành phố để chống Pháp. Chiều, lại từng toán xơ-xác chạy về. Chết có, bị thương có.
  Tiếng khóc lan rộng từ quanh chỗ tôi ở, đến tít - trong khoảng cách bọn nhóc chúng tôi có thể đi xem.

Cuối 1946, khi bác ruột tôi đem 2 anh em tôi từ Thanh Hóa, theo chuyến tàu “Thanh Niên Cứu Quốc” chạy suốt từ Hà Nội vào Nam, đều tạm ở tại nhà thờ họ, và trong những “mái tranh” sơ sài quanh nhà thờ họ Trần.
  Các bậc trưởng thượng đã tính toán và sắp xếp. Nhờ vậy, đã có chỗ trú ẩn tránh mưa nắng cho từng lớp con cháu chạy từ thành phố. Ngay từ những ngày đầu khi Pháp chiếm Huế (nói riêng), và trở lại VN năm 1947 (nói chung).

Những toán thanh niên - từ 1 số ít bắt đầu từ những rặng đồi núi phía Tây Huế - mỗi lúc mỗi gia tăng nhân số. Anh họ tôi, Ưng Hội, bấy giờ đang là sinh viên đại học tại Pháp (1945), mới từ Pháp về, giúp gia đình anh cả, cùng cô ruột tôi, chạy từ Bến Ngự lên.
  Anh tham gia đoàn dân buổi sáng, thì buổi chiều được dìu trở về. Bị thương ở chân.

Bấy giờ tôi chỉ mới biết đọc, viết chút ít. Lúc nhỏ ở quê (Thanh Hóa) chỉ ham chơi nên “vô học”. Thế mà khi những đoàn trai tiến về thành phố, miệng hô to chống “Tây”, thì tôi, lòng nao nức.

Trên chuyến tàu kia chạy suốt Bắc-Nam, cả đêm đều là tiếng hùng ca vang vọng đến tai tôi (toa chót). Sau này tôi mới hiểu, có nhiều thanh niên đã “một đi không trở lại”.

Hóa ra ngày xưa Kinh Kha “sang Tần” được nổi tiếng, vì chỉ có một (lúc ấy), mà nay cả ngàn Kinh Kha, thì ít ai nhắc đến!

Về tôi, sau này lớn lên, tôi tự hỏi, lòng xúc động theo tiếng hùng ca, lòng nao nao khi chứng kiến từng đoàn thanh niên, sáng hô to chống Pháp, chiều tơi tả chạy về - sự xúc động nhất thời của tôi đó, được giải thích như thế nào?

Những thanh niên đó, họ có phải cũng “xúc động nhất thời”, khi cùng chống giặc?

Ít lâu nay, nghe radio ? từ phòng ngoài với tiếng khá to - là thói quen của vợ tôi. Chị vừa nấu ăn, vừa “sử dụng” vài phương tiện giúp chị vừa nghe lẫn thấy : (1) TV, (2) phone, (3) ipad.
  Thế là “Gia tài của mẹ” lại được chính “người phát ngôn” hát theo. Bây giờ tôi mới nghe vợ tôi nói mà biết được chuyện Khánh Ly về ca hát tại VN. Những bài hát của Trịnh Công Sơn.

Có những người sớm đã trở thành những “thần tượng”, thì ta tránh phê phán. Nhiều thần tượng, vì lâu ngày quá, nên áo giáp bên ngoài có lúc bị cũ, mòn mà trở nên rách nát, trần trụi. Trần trụi có nghĩa là lộ ra bản chất “hết chối cãi”, cái xấu, cái thối nát được phô bày.

Có những cuốn truyện, bài nhạc, lời thơ …”đúng thời điểm” gây xúc động lòng ta. Nguyên nhân cho cảm xúc, thì mãi sau này tôi mới nhận rõ : - đối tượng cảm xúc, - tác động gần (thơ, nhạc, truyện, lời tuyên truyền, lời kích thích …), - tác động xa (hoàn cảnh …).

Mấy hôm trước, tôi vô tình đọc qua 1 trang FB đăng lại 1 đoạn viết của Nguyễn Thị Lý. Cô ta chỉ trích “Gia tài của mẹ” có lời : 20 năm nội chiến từng ngày - là sai. Cô nêu ra con số gần 600.000 lính Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Úc, … và tay sai (QLVNCH) chống lại quân đội giải phóng miền Nam.
  Chắc cô còn nhỏ, bị “tẩy não” nên chỉ “nghe” mà không chính mắt thấy. Nếu Mỹ chỉ cần thả bom miền Bắc thêm 1 tuần, sau vụ thả bom lớn nhất (hình như vào cuối 1972), thì Bắc Cộng hẳn đã ký kết “vô điều kiện” - là lời xác nhận của CSVN sau này.
  Cô đâu biết, cuộc chiến mà Mỹ chủ chốt tại VN là cuộc chiến “không đánh thắng” kẻ địch.

Bài nhạc “gia tài của mẹ”, thì chính nó - lời + nhạc + tác giả - hiểu giá trị và số phận của mình. Lúc đầu, tôi cho rằng tác giả - trong 1 cảm xúc nhất thời - đã thể hiện lòng mình, lòng “đất nước”.
  Sau này, đọc “Biến động miền Trung” của Liên Thành, rồi mới nhất, năm ngoái, khi đọc bài viết của Nguyễn Đắc Xuân (tự cho là bạn thân của Trịnh Công Sơn) + qua “sự nhớ lại của rất nhiều người” về cảnh “NỐI VÒNG TAY LỚN” trước :
“Non nước tan tành hệ bởi đâu - Dàu dàu mây bạc …” (Phan Thanh Giản)

Thì, mới biết “cảm xúc” dù “nhất thời” cũng không dễ - nếu là “cảm xúc thật”.

Một Kinh Kha, với “Thử địa biệt Yên Đan - Tráng sĩ phát xung quan - Tích thời nhân dĩ một - Kim nhật thủy do hàn” (Dịch thủy tống biệt - Lạc Tân Vương, Sơ Đường, Trung Hoa) khi người đã mất mà nay nước sông còn lạnh - thì cả triệu “kinh kha” không chỉ 20 năm (1954-1975), mà là 30 năm (1945-1975), là từ 90 năm (1885-1975) - khi VN chính thức bị Pháp đô hộ toàn bộ - những “kinh kha VN” ấy - họ yêu nước chỉ từ “cảm xúc nhất thời”. Bảo rằng họ “bồng bột” cũng được. Nhưng là “thực chất”.

Tôi không phê phán, không dám đánh giá những “bộ óc vĩ đại” có suy tính, và “yêu nước”. Người bình thường hiểu nhau vì cái “tầm thường” của mỗi chính họ. Họ không hiểu cái sâu xa. Họ tính toán rất gần, rất thực tế. Rồi chỉ trong xúc động bất ngờ, họ quên họ, quên vợ con họ, mà đi như Kinh Kha.

Họ là “những thần tượng” của tôi.

(Stone Mountain GA - July8, 2022)
-------------------------------------------

56. DỐNG NHƯ GẤM
Không lâu trước đây (khoảng 3 tháng), đọc xong “Thiều Quang Mạn” của Đông Thiên Đích Liễu Diệp, tôi chỉ thích có mỗi câu kết “Cổn Cổn Nhi Lai Cổn Cổn Nhi Thệ” cho 4 mùa luân chuyển :
  “Thiên phong quyển động xuân nhật đích thiều quang - Quyển động hạ nhật đích lôi vũ - Quyển động thu nhật đích hoàng diệp - Quyển động đông thiên đích băng tuyết”

mà có bài viết “CUỒN CUỘN ĐẾN RỒI CUỒN CUỘN ĐI” (March 9, 2022). Để rồi điểm lại “ĐỜI TA BỐN MÙA LU N CHUYỂN” (March 22, 2022)

Thiên nhiên là vậy, đời người thì sao? Suốt nửa năm qua, kể từ điểm nóng “COVID-19” cuối cùng cũng đến lúc nhường chỗ cho chiến sự Nga-Ukraine, thì tại Mỹ, stock hạ kinh khủng. Rồi giá xăng … chưa biết đã tiếp cận “đỉnh”, hay còn muốn đi lên?

“Tiếng đời” luôn “xô động”, để - đa số là những U50, U60 - có chuyện để bàn cãi. Không phải là “trà dư”, mà là từ đầu đến cuối là “tửu”. Tửu tiền, tửu trung, tửu hậu! Bó 80 như tôi, không còn nhiều thì giờ để tìm hiểu câu “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Khó có ai có tư cách lấy câu đó làm “châm ngôn” cho mình.

Mà tôi cũng là “ly khách”. Chợt nhớ 4 câu chót (nghe là được thêm vào sau này) của “Tống Biệt Hành” (Thâm Tâm/Nguyễn Tuấn Trình) :

“Mây thu đầu núi gió lên trăng
“Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
“Ly khách ven trời nghe muốn khóc
“Tiếng đời xô động, tiếng hờn căm “”

Là ly khách đã gần nửa đời người. Những người Việt Hải Ngoại cũng rất đa dạng. Đa dạng : - lý do tha hương, - tâm tư trước và nay, - v.v… Mấy ai trong họ “ven trời nghe muốn khóc”?
  Có ai “ngắm trăng” tại Mỹ? Cái lạnh tại những tiểu bang Bắc Mỹ được bao nhiêu phần trăm “thấm lạnh lòng người ly hương”?

Vậy, đời người như tôi đặt vấn đề ở trên, không quá rộng, không viễn vông. Trong mấy triệu người xa quê, mấy ai “lẩm cẩm” đặt câu hỏi đó, “cho tha nhân” hay chỉ “cho riêng mình”?

Tìm đọc tiếp các tác phẩm khác của Đông Thiên Đích Liễu Diệp, tôi đọc “TỰ CẨM”. Đều là chữ Hán-Việt. Chữ kép trong từ điển Hán-Việt của Đào Duy Anh liên quan 2 chữ này chỉ thấy “Cẩm Tự”, có nghĩa, “chữ thêu trên gấm”. Vậy, “Tự Cẩm” là 2 từ riêng rẽ. Tìm nghĩa của mỗi từ để hiểu nội dung của cuốn truyện, thật cũng làm khó tôi không ít.

Chương cuối viết “Phồn Hoa Tự Cẩm” của cuốn “Tự Cẩm” đã cho tôi câu trả lời. Và đọc hết cuốn truyện (hình như 868 chương), tôi mới chọn đề tài cho bài viết này “DỐNG NHƯ GẤM” (Trước nay, tôi đều dùng chữ “giống nhau”, thì từ điển của Đào Duy Anh viết rõ : Tự là “tựa như, DỐNG như”. Tôi phải theo).

Khung cảnh là thời Nam-Bắc-Triều, Trung Hoa. Là chuyện xung đột trong cung đình Bắc Chu (thuộc Bắc-triều). Thời gian từ 571-589, trước khi Dương Kiên thống nhất nước Tàu, và lập nên nhà Tùy kể từ 589.
  Tác giả dựa vào khung cảnh trên mà đưa ra những nhân vật + việc xảy ra theo hư cấu, nhằm tiểu-thuyết-hóa.
  Cảnh Minh Đế, vua Bắc Chu, có 7 con trai - đều là hoàng tử có vương vị. Thế là các vương-gia này cùng các vương phi (vợ các hoàng tử) tranh giành nhau chức “trữ quân” - là Thái tử. Thường thì Thái tử sẽ kế nghiệp vua.

Bước lên đế-vị - là ngôi vua - hẳn là từng bước mà bước lên “thềm gấm, đệm hoa”. Tuy nhiên, không con đường nào là thanh bình cho “đường đời”, nhất là “con đường phú quý”. Kẻ thù ở khắp nơi, từ xa đến gần, từ sơ đến thân. Không hiếm kẻ phản ta lại là những người rất gần ta. Giá phải trả thì kinh khủng. Là mạng sống của chính ta, vợ con, thân bằng quyến thuộc …

Cái gì mà chính sử? Cái gì mà lịch sử “sự kiện”? Lịch sử khách quan? Lịch sử diễn giải? Đều là những biện hộ. Thừa giấy vẽ voi. Càng hiện đại càng quái gở!

Lịch sử Việt từ 80 năm trở lại, e phải cần chờ rất lâu nữa - khi nào những vết đen “thay trắng” đã hết tác dụng, khi nào “cái rất dống như gấm” được thấy rõ “không là gấm” chút nào!

Và mọi “phồn hoa” tựa như “gấm”, hay “tựa như dệt trên gấm” - cũng là cách nói. Nhưng gấm dù đẹp, dù êm ái, cũng có lúc vì biến đổi của thời gian mà thay đổi - theo đà đi xuống.

Nhưng “Mệnh trời và Số người” khắn khít nhau. Thiên nhiên với 4 mùa - có rực rỡ như xuân, có sấm sét như hạ, có vàng úa như thu, và đông băng giá - thì vẫn trở lại chu kỳ “miên viễn”.
  Những câu chuyện được kể từ gần 1 ngàn 5 trăm năm trước, lại cũng y hệt chuyện 100 năm nay - tạm cho là riêng lịch sử VN.

Viết cho những tháng cuối hạ.

(Stone Mountain GA - July 12, 2022)

--------------------------------------------
HẾT (TẬP 2)

                 
fb Comment:
* Kim Do is with Nguyễn Dân Việt.
Gần đoạn cuối, có nhắc đến tên anh
 
Nguyễn Dân Việt
Cảm ơn Kim Do.
Đã cho DV biết.
Tác giả bài viết là một SQ gốc LLĐB từ thời Đệ Nhất Cọng Hoà, là Trưởng Toán A.103 / Trưởng Trại LLĐB Gia Vực (Tiền thân của TĐ.70 BĐQ/BP) và cũng là Ông Thầy của DV.
 
Kim Do
Chuyện của NT viết khá ly kỳ, khiến em theo đọc gần hết trang nên mới thấy tên anh.
NT này khoá 16 Đà Lạt mà ngày xưa 1 NT khác đã đứng chủ hôn cho anh xã (quá cố )với em.
 
Xem đoạn "36. TOÁN A103 LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT VN MỘT THỜI" ở trên
Trại LLĐB Gia Vực (A.103) và Tiểu Đoàn 70 BĐQ/BP.
-----------------------------
Gia Vực là một xã của Quận Ba Tơ, Tỉnh Quảng Ngãi, nằm gọn trong một khu lòng chảo có núi non bao quanh. Trại LLĐB Gia Vực được nối với Ba Tơ bằng QL.24, cách Quận lỵ Ba Tơ 20km về Tây Nam, cách LZ English 56km về phía Tây Bắc.
Phi Trường Gia Vực có phi đạo dài nên C-123 đáp xuống được, Trại cũng kiểm soát TL.5 nối Kon Tum với Quảng Ngãi.
Sông Re cạn vào mùa khô nhưng dâng cao và chảy xiết trong mùa nước lũ.
Người Hre là sắc tộc bản địa.
- Trại Gia Vực được LLĐB Mỹ (SF) thiết lập vào tháng 2/1963 (A.729), lực lượng Dân Sự Chiến Đấu (CIDG) chủ yếu của Trại là người Hre. Đây là một trong những Trại đầu tiên SF lập tại Vùng I, trên vị trí đồn Kon Plong (cũ) và nằm gần sông Re.
Khi mới thiết lập, Trại thuộc Vùng 2 nhưng đến 1964 điều chỉnh lại biên giới các Vùng thì Trại Gia Vực chuyển sang Vùng I và là Trại cực Nam của Vùng I với nhiệm vụ chính là phòng thủ biên giới và canh chừng VC xâm nhập từ phía núi xuống, bãi mìn phía trước Trại còn sót lại nhiều quả mìn gài từ thời Pháp.
Theo tài liệu của LĐ.5 LLĐB Mỹ (5th SF) ghi lại thì các Toán chịu trách nhiệm điều hành Trại thay đổi: A.729 (02/1963), A.112 (12/1964), A.103 (1964-1969).
Trại có 5 tiền đồn phòng thủ từ xa, tại các cao điểm cách Trại 8-10km quanh vùng.
Quân số trong Trại gồm:
-Toán A.103 LLĐB Mỹ (SF): 12 người.
-Toán A LLĐB VN : 09 người.
-Lực lượng CIDG: 515 người, đa số Hre.
Được chia thành 4 Đại Đội, 2 Trung Đội Viễn Thám/Thám Kích và 1 Toán Dân Sự Vụ.
Lực lượng trú phòng tuy không trang bị Đại bác 105 ly nhưng nhiều vị trí được đặt Súng không giật 106 ly. Theo đánh giá của LLĐB Mỹ thì Trại Gia Vực là một trong những Trại được xem là thành công nhất về phương diện Dân Sự Vụ và bình định. Từ Trại Gia Vực, LLĐB Mỹ đã mở nhiều cuộc hành quân về Ba Tơ và các Đại Đội cơ hữu của Trại đã nhiều lần hành quân yểm trợ các Trại khác trong vùng Quảng Ngãi, các Toán Thám Sát LRRP (Long Ranger Reconnaissance Patrol) cũng dùng Trại Gia Vực làm nơi xuất phát. Các CIDG gốc Hre cũng thành lập một Đại Đội riêng trong Lực lượng Mike Focres (MF) là ĐĐ.12 MF tham dự trận Làng Vei tháng 1/1968.
*Trại LLĐB Gia Vực cải chuyển sang Tiểu Đoàn 70 BĐQ/BP.
Trại LLĐB Gia Vực được LLĐB Mỹ (SF) bàn giao lại cho LLĐB.VN vào ngày 31/1/1969.
-Lực lượng CIDG: 460 người.
-Một Toán liên lạc SF vẫn ở lại cho đến ngày 30/9/1970 được cải chuyển thành TĐ.70 BĐQ/BP trực thuộc Liên Đoàn 11 BĐQ cùng các TĐ.68 (CIDG của Trại LLĐB Minh Long), TĐ.69 (CIDG của Trại LLĐB Ba Tơ).
Sau đó 460 CIDG được gởi đi huấn luyện tại Tung Tâm HL.BĐQ Dục Mỹ, trong thời gian huấn luyện thì 1 Tiểu Đoàn Bộ Binh của SĐ.2BB tạm trấn đóng, nhưng tình hình an ninh khả quan nên Trại được giao lại cho 1 Đại Đội ĐPQ và 1 Trung Đội Nghĩa Quân Hre trấn giữ cho đến khi TĐ.70 hoàn tất huấn luyện trở về trấn giữ.
Từ năm 1970 cho đến 1974 tình hình an ninh tại Gia vực khả quan, BCH Tiểu Đoàn thường xuyên tung các Trung đội Trinh Sát/Thám kích bung rộng hành quân lục soát các khu vực bên ngoài Trại và cũng nhờ các Tiền đồn phụ phòng thủ từ xa như Tà Noát, Ô Chai, Ba Ngạc .....
Tháng 8/1974, quân CSBV bắt đầu tấn công vùng núi Quảng Ngãi, mở đầu là Chi khu Minh Long do 2 Đại Đội ĐPQ trấn giữ bị Trung Đoàn 52 CSBV đánh chiếm ngày 17/8/1974, các tiền đồn do 15 Trung Đội Nghĩa Quân Quận đóng chốt bị Pháo Cọng quân tàn phá, Trung Đội Pháo binh Chi Khu bị phá huỷ, lực lượng tiếp viện gồm 3 Tiểu Đoàn của SĐ.2 BB không phá nổi vòng vây của Cọng quân.
Sau khi Minh Long thất thủ, Trại Gia Vực bị Cọng quân pháo kích hàng ngày với mật độ dày.... các đơn vị cấp Đại Đội được tung ra ngoài hành quân lục soát chạm địch liên tục... và cọng quân dùng đặc công tấn công các tiền đồn phụ nhưng không chiếm được, pháo cọng quân bắn liên tục vào Trại, ngay lúc nầy Trại Gia Vực hoàn toàn bị cô lập.
Ngày 16/9/1974, CSBV huy động 2 Trung Đoàn Bộ Binh, Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn 406 đặc công cùng Pháo các loại .... có xe Tank yểm trợ tấn công Trại Gia Vực, cùng lúc đó tại 5 tiền đồn phụ, cọng quân pháo kích liên tục và dùng bộ binh tấn công, 5 tiền đồn bị mất nhưng các Chiến sĩ BĐQ trú phòng phản ứng quyết liệt, đánh trả và tái chiếm lại ngay trong ngày.
Lúc nầy thời tiết xấu, trời mưa nhiều, TĐ.70 BĐQ không nhận được bất cứ sự yểm trợ nào... kể cả Phi pháo, 50 binh sĩ hy sinh và số binh sĩ bị thương ngày một tăng cao, không được tản thương, tiếp tế đạn dược... Các Chiến sĩ anh dũng chiến đấu, đánh trả quyết liệt... nhưng trong vô vọng !
Ngày 22/9/1974, toàn bộ các cứ điểm phòng thủ và Trại Gia Vực bị tràn ngập, TĐ.70 BĐQ đã chiến đấu đến cùng. Tiểu Đoàn Trưởng Hoàng Trọng Khải và một số SQ bị bắt sống, Đại uý Trần Nghĩa, Tiểu Đoàn Phó hy sinh cùng trên 200 Chiến sĩ tử thủ, bị thương trên 100 Chiến sĩ, chỉ còn 21 Chiến sĩ sống sót mở đường máu về hướng Đak Pet Kon Tum lạc trong rừng hơn 7 ngày sau mới được Trực Thăng PĐ.213 bốc về.
TĐ.70 BĐQ được tái tổ chức và bổ xung quân số.
Tháng 1/1975 việc phòng thủ Tỉnh Quảng Ngãi được Tư Lệnh Quân Đoàn I giao cho Trung Đoàn 6/SĐ.2 BB và Liên Đoàn 11 BĐQ gồm (68,69 và 70).
Tháng 3/1975, tình hình an ninh Tỉnh Quảng Ngãi bị nguy ngập, tuy Trung Đoàn 4/SĐ.2 BB đã khai thông được QL.1 đoạn Quận Bình Sơn, nhưng về phía Tây Bình Sơn cọng quân đã tấn công vào đoàn Dân Quân di tản khỏi Trà Bồng, TĐ.69,68 BĐQ bị phục kích và tan rã.
Tại phía Nam Quảng Ngãi, Đức Phổ cọng quân tấn công cắt đứt QL.1, cô lập Sa Huỳnh nơi TĐ.70 BĐQ trấn giữ cùng TĐ.137 ĐPQ.
Ngày 25/3/1975 Quảng Ngãi thất thủ và tiếp theo là Quân Đoàn I, một số Sĩ Quan và Binh sĩ bị bắt, TĐ.70 BĐQ tan hàng.
*Hình ảnh và Tư liệu của Green Berret.
(Nguồn: Fb. Nguyễn Dân Việt).
P/S:
-Hình 1: Huy hiệu Toán A.103 Trại LLĐB Gia Vực.
-Hình 2: Trại Gia Vực Căn cứ của TĐ.70 BĐQ/BP.
-Hình 3: Đại uý Nguyễn Tài Chữ, Trưởng Trại LLĐB cùng SQ.LLĐB Mỹ, sau khi cải chuyển sang TĐ.70 BĐQ/BP, ông mang cấp bậc Thiếu Tá TĐ.Trưởng.
 
 
 



 



 
 
 
 
 

No comments:

Post a Comment