Phạm Tín An Ninh - fb Son H Cao
Tôi gặp chị trong buổi họp mặt của các anh Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt, được tổ chức tại một nhà hàng ở thành phố Westminster, Nam Cali, nhằm kỹ niệm 55 năm ngày mãn khóa. Vợ chồng tôi có chút cơ duyên được xếp ngồi cùng bàn với chị.
---------------------------------------
---------------------------
Qua
đôi lời chào hỏi đầu tiên, chúng tôi biết chị từ Việt Nam mới sang theo
lời mời của Ban Tổ Chức, muốn dành cho chị một ân tình đặc biệt để có
cơ hội gặp lại những người bạn cùng khóa Lê Lai với phu quân của chị, Cố
SVSQ Đoàn Đình Thiệu.
Sau
nghi thức chào quốc kỳ là một lễ tưởng niệm những vị đồng môn đã hy
sinh trong không khí rất trang trọng, cảm động và mang nhiều ý nghĩa.
Trên bàn thờ, phía sau những ngọn nến lung linh là hình phóng lớn của
tấm bia đá tưởng niệm có khắc đậm tên 79 vị sĩ quan Khóa 17 đã lẫm liệt
hy sinh trong cuộc chiến. Tấm bia này là một kỳ công được các cựu SVSQ
Khóa 17 thực hiện và dựng tại Công viên Victor Memorial Veterans Park,
thuộc Thành phố Greer, Tiểu Bang South Carolina, Hoa Kỳ từ tháng 6 năm
2008.
Khi
chị Thiệu cùng một số cô nhi quả phụ khác của Khóa 17 được mời lên thắp
hương trước bàn thờ tử sĩ và nhận món quà lưu niệm của Khóa, qua lời
giới thiệu của người điều khiển chương trình, chúng tôi được biết nhiều
hơn về chị. Và trong số những cô nhi quả phụ cùng đứng chung với chị
chúng tôi còn nhận ra cháu Võ Hải, trưởng nam của Đại Tá Võ Toàn, vị đại
tá duy nhất của Khóa, đã hy sinh cũng vào giờ thứ 25 khi Quân Đoàn I di
tản, đến bây giờ chưa biết thân xác nằm ở nơi đâu; và phu nhân của
Trung Tá Võ Vàng, một cấp chỉ huy nổi tiếng trong Binh chủng Biệt Động
Quân, đã bị kẻ thù sát hại dã man tại trại tù Kỳ Sơn – Quảng Nam, sau
1975.
Thiếu
Tá Đoàn Đình Thiệu tử trận tại Phú Lâm vào khoảng 12giờ 30 trưa ngày
30.4.75, hơn một giờ sau lệnh “buông súng” của Tướng Dương Văn Minh. Khi
ấy anh là Tiểu Đoàn Phó của Tiểu Đoàn 86 BĐQ mà Tiểu Đoàn Trưởng là
Thiếu Tá Trần Tiễn San, một niên đệ Khóa 19 Võ Bị của anh.
Trước
khi ra đơn vị này, Thiếu tá Thiệu phục vụ nhiều năm tại TTHL Biệt Động
Quân Dục Mỹ với chức vụ Trưởng Khối Yểm Trợ. Do quyết định của Tướng Đỗ
Kế Giai, Chỉ Huy Trưởng Binh chủng Biệt Động Quân, một số sĩ quan phục
vụ lâu năm tại quân trường hay giữ những phần hành tham mưu được điều
động hoán chuyển ra các đơn vị tác chiến. Cuối năm 1974, đúng vào lúc
Thiếu Tá Thiệu nhận lệnh hoán chuyển, tại TTHL/BĐQ đang có Liên Đoàn
8/BĐQ vừa mới được thành lập với đa phần quân số từ các Tiểu Đoàn 7, 9,
11 Quân Cảnh giải tán bổ sung cho Binh chủng Biệt Động Quân, nên nhân
tiện, ông xin ra phục vụ ở đơn vị tân lập này. Vì ở quân trường và đảm
trách một phần hành tham mưu khá lâu, nên khi ra đơn vị tác chiến, ông
không thể đảm nhận một chức vụ chỉ huy ngay trong thời gian ban đầu, do
đó ông tìm gặp Thiếu Tá Trần Tiễn San, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 86 và ngỏ ý
muốn được về làm Tiểu Đoàn Phó cho Thiếu Tá San, một niên đệ Khóa 19, mà
lúc còn trong trường Võ Bị Đà Lạt, ông có trách nhiệm hướng dẫn, dạy dỗ
với tư cách niên trưởng. Biết ông là niên trưởng lại có thâm niên cấp
bậc hơn mình, Thiếu Tá San muốn giúp đỡ, nhưng rất e ngại nên đề nghị
ông phải làm đơn gởi lên Thiếu Tướng CHT/BĐQ để trình bày nguyện vọng
của mình. Cuối cùng ông được toại nguyện. Để nhận Thiếu Tá Thiệu về làm
Tiểu Đoàn Phó cho mình, Thiếu Tá Trần Tiễn San còn phải giải quyết một
vài khó khăn tế nhị khác. Vì lúc ấy Tiểu Đoàn đã có Tiểu Đoàn Phó là Đại
Úy Phan Trí Viễn. Thiếu Tá San đã năn nỉ Đại Úy Viễn sang làm Trưởng
Ban 3 Tiểu Đoàn và xin Liên Đoàn nhận anh Đại Úy Trưởng Ban 3 cũ về giữ
một chức vụ tại BCH/ Liên Đoàn. Thông cảm cho anh, tất cả đều vui vẻ
chấp nhận sự sắp xếp của anh.
Kính
nể một niên trưởng có tư cách, Thiếu Tá San đã dành cho vị Tiểu Đoàn
Phó nhiều ưu ái đặc biệt. Có điều đúng vào thời điểm Thiếu Tá Thiệu ra
đơn vị, cuộc chiến đang ở giai đoạn khốc liệt nhất. Sau khi Mỹ bất chấp
những phản đối của VNCH, đã tự cho mình ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc
Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp Định Paris ký
kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi tay cuộc
chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ ạt tung nhiều sư đoàn với lực
lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập
Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị phòng
thủ của ta.
Phước
Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không
có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi
phạm hiệp định,. Điều này đã báo hiệu cho số phận của VNCH.
Liên
Đoàn 8 BĐQ ban đầu đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Vũ Phi Hùng, với
ba vị tiểu đoàn trưởng đều là niên đệ Võ Bị của Thiếu Tá Đoàn Đình
Thiệu. Thiếu Tá Nguyễn Văn Nam (K.20) TĐT/TĐ 84, Thiếu Tá Trần Tiễn San
(K.19) TĐT/TĐ 86, và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Mạnh (K.20) TĐT/TĐ 87. Thiếu Tá
Thiệu chọn về làm Tiểu Đoàn Phó cho một niên đệ Khóa 19, là khóa đàn em
có nhiều gắn bó và xem như học trò của Khóa 17 thời họ còn là những
sinh viên sĩ quan.
Dù
chưa được trang bị và huấn luyện đầy đủ, Liên Đoàn nhận lệnh của Bộ TTM
di chuyển về Sài gòn để giữ an ninh trong dịp Tết nguyên đán. Liên Đoàn
đặc trách phòng thủ khu vực từ QL 1 đến QL 4, ngoại trừ TĐ 84 đặc trách
một khu vực kế cận. Vào những ngày đầu tháng 4/75, Liên Đoàn 8 BĐQ
thường phối họp cùng Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù tân lập mở các cuộc hành quân vào
Mật khu Lý Văn Mạnh và đã phát giác có sự hiện diện của nhiều đơn vị
chính quy Bắc Việt đang hoạt động, ém quân tại đây.
Để
đề phòng cho trường hợp bị tấn công bởi các đại đơn vị này của địch,
Đại tá Vũ Phi Hùng, Liên Đoàn Trưởng bàn bạc với các Tiểu Đoàn Trưởng,
vạch ra một kế hoạch ứng phó khi tình hình trở nên nguy ngập, được gọi
là kế hoạch “Bravo”: Các tiểu đoàn tự rút về Giáo xứ Tân Phú của Linh
Mục Đinh Xuân Hải để tái phối trí và tiếp tục chiến đấu tại đây.
Khoảng
hai tuần lễ sau đó, Sư Đoàn 106 BĐQ được thành lập, với vị Tư Lệnh là
Đại Tá Nguyễn Văn Lộc. Đại Tá Vũ Phi Hùng, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 8
BĐQ được chỉ định giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng, và bàn giao Liên Đoàn cho
Trung Tá Chung Thanh Tòng từ BĐQ Vùng I di tản.
Ngày
27/4/75 Cộng quân mở các cuộc tấn công liên tục vào tuyến phòng thủ của
Tiểu Đoàn 84 và 87. Hai vị Tiểu Đoàn Trưởng xuất sắc cùng xuất thân
Khóa 20 VB đã anh dũng điều quân chiến đấu, yểm trợ cho nhau để giữ vững
phòng tuyến. Lực lượng địch quá đông và có chiến xa T 54 hỗ trợ, trong
khi bên ta đã có nhiều binh sĩ thương vong, đạn dược cạn dần. Đến tối
ngày 29/4/75 tình trạng trở nên tồi tệ hơn nên các đơn vị đề nghị thực
hiện kế hoạch “Bravo”, rút về Giáo xứ Tân Phú lập tuyến phòng thủ mới
như đã dự trù. Nhưng Đại Tá Vũ Phi Hùng từ BTL/SĐ 106 cho biết kế hoạch
này không thể thực hiện được nữa, vì nhiều đơn vị Cộng quân đã thâm nhập
vào Sài gòn từ các hướng khác.
Trong
tình huống này, vẫn không có cách nào khác hơn, sáng sớm ngày 30/4 Liên
Đoàn ra lệnh bằng mọi giá phải mở đường máu lui binh về hướng Sài gòn.
Tiểu Đoàn 84 của Thiếu Tá Nguyễn Văn Nam lúc ấy đang bố trí dọc theo xa
lộ Đại Hàn, bị áp lực nặng nề nhất do nhiều chiến xa của địch bao vây
tấn công liên tục. Tiểu Đoàn 87 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Mạnh rút ra từ
Mật Khu Lý Văn Mạnh, mở đường cho BCH/ Liên Đoàn và Tiểu Đoàn 86 của
Thiếu Tá Trần Tiễn San vừa rút ra sau cùng, vừa làm lực lượng án ngữ bọc
hậu. Cuộc lui binh rất khó khăn trong lúc bị địch quân bao vây, tấn
công từ mọi phía.
Thiếu
Tá San ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó Đoàn Đình Thiệu thu nhặt hết số súng
thặng dư bỏ vào ụ súng cối 81 ly để thiêu hủy. Pháo Đội Pháo Binh trong
căn cứ BCH/ Liên Đoàn có bốn khẩu đại bác 105 ly, nhưng mỗi khẩu chỉ còn
một quả đạn trong nòng. Thiếu Tá San cho lệnh bắn trực xạ vào những
điểm địch quân tấn công mạnh nhất, sau đó phá hủy súng, và yêu cầu Pháo
Đội rút theo BCH/ Liên Đoàn. Tiểu Đoàn phải mở đường máu để có thể thoát
ra khỏi vòng vây của địch, nên tất cả thương binh đành phải bỏ lại phía
sau.
Trong
lúc vừa điều quân vừa chiến đấu, Thiếu tá San bị thương ở mặt, phải bò
đến một mô đất tạm ẩn nấp để tự băng bó. Đúng lúc ấy, Trung Úy Đoàn Ngọc
Lợi (K.26VB), Đại Đội Trưởng ĐĐCH chạy đến báo cáo là Niên trưởng Đoàn
Đình Thiệu vừa mới hy sinh bên bờ ruộng. Ông bị bắn đứt động mạch ở
chân. Mấy người lính trung thành ngỏ ý cõng ông theo, nhưng ông khoác
tay, bảo “chạy gấp đi, anh không thể sống được!” Trung Úy Lợi còn cho
biết, trước khi nhắm mắt ông hỏi Lợi: “Moa chết rồi ai sẽ nuôi vợ con
đây?” Lúc ấy khoảng 12 giờ 30 trưa ngày 30/4, sau đúng một giờ Tướng
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng!
Sau
đó Thiếu Tá San cùng nhiều cấp chỉ huy khác bị bắt đưa vào làng. Vì bị
thương ở đầu, máu ra nhiều, nên anh được cho về, gia đình đưa vào điều
trị tại Bệnh viện Triều Châu. Một ông chú nghe tin vào thăm, biếu anh
30.000 đồng. Anh cho người nhà tìm gặp gia đình Thiếu Tá Đoàn Đình Thiệu
báo tin về cái chết của người niên trưởng. Chị Thiệu tìm đến thăm anh
và hỏi kỹ địa điểm anh Thiệu đang nằm để đi tìm. Anh San chỉ dẫn, chia
buồn và biếu chị Thiệu 30.000 đồng mà ông chú vừa mới cho anh.
Theo
lời kể của chị Thiệu, vì tình hình lúc ấy rất hỗn loạn, tiếng súng vẫn
còn nổ khắp nơi, nhiều đơn vị của ta không chịu buông súng và vẫn tiếp
chiến đấu, nên chị không dám đi tìm anh Thiệu, hơn nữa chị cũng không
rành đường sá ở đây, đành phải nhờ cậu em trai, dùng xe Honda len lỏi
tìm đến vị trí mà Thiếu Tá San chỉ dẫn. Cậu em tìm được xác anh Thiệu,
nhưng không thể tìm được bất cứ một phương tiện nào để chuyên chở, và
cũng không biết sẽ chở về đâu, trong tình thế lúc này. Cuối cùng, rất
may mắn, một anh tài xế xe rác nặng tấm lòng với QLVNCH, đã vui vẻ nhận
lời giúp đỡ. Sau khi đổ hết rác trên xe xuống vệ đường, theo sự hướng
dẫn của cậu em chị Thiệu, nhưng cũng rất nhiều khó khăn, anh tài xế mới
đưa xe đến được vị trí, nơi anh Thiệu nằm. Sau một lúc thảo luận, cuối
cùng hai anh chở xác Thiếu Tá Thiệu đến Nhà Thờ Bùi Phát để nhờ giúp đỡ.
Và cũng rất may mắn, đã gặp đúng một vị linh mục nhân từ. Cha Trần Quốc
Phú vui vẻ nhận lời, đứng ra tẩm liệm và chôn cất Thiếu tá Thiệu ngay
trong khu đất của nhà thờ.
Chị
Thiệu thường xuyên đưa các con đến đây thăm viếng và xây lại ngôi mộ
cho chồng. Mấy năm sau, chị xin hỏa táng, và mang tro cốt anh về thờ tại
tư gia ở Mỹ Tho. Lúc Thiếu Tá Thiệu mất, anh chị có ba con, hai trai 9
và 7 tuổi, cô con gái út chưa tròn 12 tháng. Sau này, cháu trai lớn mất,
cháu gái định cư ở Úc. Hiện nay chị sống với cậu con trai thứ tại Mỹ
Tho, quê hương của chị. Điều đáng ngưỡng mộ hơn, khi chồng hy sinh, chị
còn khá trẻ, nổi tiếng có nhan sắc, nhưng không hề bước thêm một bước
nào nữa, ở vậy nuôi dạy các con trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nghiệt
ngã. Cả hai cháu đều nên người, thành đạt, hiếu thảo và luôn sống với
niềm tự hào về người cha Võ Bị, từng sống rất tư cách và chết hiên
ngang.
Cuộc
chiến Việt Nam đã gây ra biết bao đau thương tang tóc. Vào giờ thứ 25
của cuộc chiến có biết bao nhiêu người đàn bà trở thành góa phụ, biết
bao đứa con thơ trở thành cô nhi, nhiều cháu chưa hề biết mặt cha mình.
Không những không được hưởng bất cứ một ân sũng nào của quôc gia khi
chồng, cha hy sinh cho Tổ Quốc mà họ còn bị kẻ thù phân biệt đối xử,
nhục mạ và phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trong cuộc sống. Những
người như chị Đoàn Đình Thiệu rất xứng đáng để chúng ta biết ơn và ngợi
ca. Sự hy sinh nào của những người lính, hay vợ con của lính, cũng đều
tiềm ẩn những ý nghĩa cao quý, cho dù những cái chết vô danh, không được
truy thăng hay chôn cất theo lễ nghi quân cách. Với Tổ Quốc và lịch sử
dân tộc, những hy sinh dù trong âm thầm, vẫn mãi mãi là điều bất diệt.
Viết
những dòng này, xin được thay bó hoa hồng tươi thắm nhất, gởi đến Chị
Đoàn Đình Thiệu và các cháu cũng như những cô nhi quả phụ khác của giờ
thứ 25, lòng tri ân và ngưỡng mộ của những người một thời từng là đồng
đội, là huynh đệ của phu quân các chị, người cha đáng kính của các cháu.
Và xin cầu chúc những điều tốt đẹp nhất cho những người đã sẵn sàng
chấp nhận những số phận nghiệt ngã, hy sinh, nhưng vẫn luôn hãnh diện có
chồng, cha là lính chiến VNCH, đã dám chết cho quê hương, dân tộc.
Cali, tháng 4/ 2018
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment