Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
Thuở lên năm lên sáu, cứ mỗi độ gió chướng từ biển Gò Công rào rạt thổi
vào thành phố đìu hiu nghèo nàn ở quê tôi, cảm giác Xuân về làm tâm hồn
tôi cứ lâng lâng, nôn nao, rạo rực đợi chờ từng ngày và từng ngày…!
Tuần lễ trước Tết cuối năm âm lịch, Mẹ và Chị tôi tất bật với bếp lò,
nào bánh chưng, bánh tét, bánh ú, bánh ít , dưa giá củ kiệu , nồi thịt
kho nước dừa thơm phưng phức béo ngậy mùi mỡ, hương nồng nồng nồi canh
khổ qua nhồi thịt xông lên mũi ôi sao mà tưởng chừng như muốn ăn cho no
nên nức lòng, thỏa dạ …! Tất cả người thân yêu trong gia đình cứ hân
hoan vẻ mặt, xuôi ngược với chợ Tết mua sắm nhang đèn, hoa quả và quần
áo mới cho các anh chị em tôi. Mấy anh em trai tôi thì hì hục lau chùi
đánh bóng ba bộ lư, chân đèn, mâm đồng, mấy bộ tủ bàn ghế cẩn xà cừ, phụ
Cha tôi dựng cây nêu trước sân nhà trong không khí náo nức chờ đợi đêm
giao thừa với món bánh tráng cuốn thịt kho Tàu dưa giá với tô nước thịt
làm nước chấm có ớt cay tới xé lưỡi và nhất đám trẻ con chúng tôi được
thay quần áo mới chờ bố mẹ lì xì tiền Tết… Chúng tôi chơi lô tô, chờ nửa
đêm tới giờ giao thừa, kéo nhau ra sân bắn ống tre hơi khí đá thay cho
pháo nổ đì đùng… !!!
Theo thời gian…rồi cũng qua đi, tôi lớn dần cho đến khi lên trung học, rồi đại học, dường như tôi không còn cái cảm giác Xuân về Tết đến như lúc còn ấu thơ với gia đình và cho đến khi vào lính ! Sau 2 năm học tập, tôi luyện vất vả ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, tốt nghiệp ra trường lại đúng vào Tết Mậu Thân (tháng 12 cuối năm 1967 - đầu năm 1968) là “cái“ Tết tang thương đẫm máu và nước mắt trên khắp mọi nẻo đường đất nước…! Có cần nhắc lại ở đây hay không? Dạ thưa không! Vì có lẽ ai ai đang sống trong thời điểm lúc bấy giờ cũng biết, đã trải qua và chắc không thể quên những ngày Tết bi thảm đó…! Ôi … Tết Mậu Thân với bao nỗi chết như vết thương hằn sâu vào tiềm thức của mọi người thì làm sao quên cho được? Ngay ngày Tết mà bọn khát máu, man di mọi rợ Việt Cộng năng nổ, xông xáo, lùng sục đạp cửa từng nhà dân lành vào đêm giao thừa, sáng mùng một Tết và cả thời gian sau đó tại vùng chúng chiếm đóng, chúng tróc nã, lôi cả cha mẹ vợ con, bạn bè, thân bằng quyến thuộc ra trước cửa nhà rồi qui tội và hành quyết tại chỗ, mặc cho tiếng kêu gào thảm thiết của người thân …! Làm sao tôi quên được cái Tết đó, cái Tết mà tôi vừa mới “đăng quan” thiếu úy sữa, tưởng rằng ”áo gấm về làng vinh quy bái tổ” thì mùng hai, mùng ba Tết lại phải đi gác hòm cho vị Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị và vị Đại Đội Trưởng khác của Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù - Lực Lượng Đặc Biệt (TĐ91BCD/LLĐB) vừa ngã quỵ trên đường phố Độc Lập - Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, đơn vị mà tôi mới vừa đáo nhậm chưa tới mười ngày! Thời gian sau … cứ iên tiếp là những cái Tết: Kỷ Dậu (1969), Canh Tuất (1970), Tân Hợi (1971), Nhâm Tý (1972) với giày saut mòn gót, áo trận bạc màu thay mới đã bao lần, miệt mài hành quân tới tận rừng sâu núi thẳm săn lùng, giết giặc, chí cho tới những mặt trận khốc liệt trên khắp vùng chiến thuật …
Chẳng có dưa hành thịt mỡ, chẳng có bánh chưng bánh tét mà chỉ có gạo sấy thịt hộp ba lát, rau rừng mọc dại dọc theo bờ suối, ven sông dưới chân đồi…
Cũng chẳng có rượu nếp than hay rượu đậu nành là đặc sản của Gò Công - Mỹ Tho quê tôi, mà chỉ có nước hố bom chứa sẵn trong bidong… Không còn nghe tiếng pháo đón giao thừa quen thuộc, thay vào đó là tiếng rít của hỏa tiễn 122 ly, đại pháo 130ly và đạn AK47 veo véo bay ngang qua đầu mà thân còn đang lội bì bõm dưới giao thông hào, hố cá nhân lầy lội bùn sình, lấp xấp nước … Chiến Tranh mà! Chiến tranh sát hại sinh linh, chiến tranh tàn phá vạn vật thì huống hồ chi tuổi trẻ của tôi. Chiến tranh cũng không cần biết Xuân Hạ Thu Đông, Tết nhất sinh nhật giỗ kỵ gì hết, cũng không phân biệt già trẻ bé lớn, chỉ có bắn giết lẫn nhau để đoạt chiến thắng với bất cứ giá nào, dù cái giá phải trả bằng hằng vạn mạng sống của người dân lành vô tội!
Tết Quý Sửu năm 1973:
Hiệp định Paris hoặc hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Cộng Hoà Miền Nam và Việt Nam Cộng Hoà ký kết tại Paris ngày 27-1-1973. Về mặt công khai thì đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố 10 điểm ngày 08-05-1969 của phái đoàn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Hoa Kỳ... (Trích Từ Báo Chính Luận Sài Gòn Phát Hành).
Ngày 29 Tháng 1 Năm 1973:
Ngày thứ bảy 27 tháng 1 năm 1973, ngày lịch sử bốn bên tham chiến cùng ký kết ngưng bắn, tái lập hòa bình cho cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam sau hơn hai mươi năm chiến cuộc huynh đệ tương tàn! Ngày lịch sử này nhằm ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tý. Tết Quý Sửu! Đêm hôm trước là ngày đưa ông táo về trời, mà trong đầu cứ phải nhớ những tọa độ để xin Pháo Binh bắn phản pháo. Sáng ngày 28-1-1973, tôi đứng trên một ngọn đồi thấp bên bờ Nam sông Thạch Hãn - Quảng Trị, dùng ống nhòm quan sát bên kia bờ Bắc. Thường thì chúng (quân Cộng Sản Bắc Việt) ẩn nấp sâu, lặn kỹ, không thấy một bóng dáng nào di chuyển trên mặt đất, tăng (tank) pháo (cannon, đại bác, súng lớn) thì được ngụy trang bằng lưới chụp, cài kết cành lá như bụi cây di động để tránh những cặp mắt cú vọ của phi cơ quan sát OV10 thường trực từ ở đâu đó trên bầu trời săn lùng, phát hiện và chỉ điểm mục tiêu để cho quân ta thanh toán. Hôm nay thì hoàn toàn khác, lệnh ngưng bắn toàn phần đã được ban hành lúc 0 giờ đêm hôm qua, chiếu theo điều luật của Hiệp Định Paris, sự việc ngưng bắn phải được cả hai bên Bắc - Nam tuân thủ là không được động binh hay di chuyển quân, không được vô cớ nổ súng khi chạm mặt dù đang ở trong thế cài răng lược.
Xuyên qua làn sương không dầy trôi lãng đãng trên sông Thạch Hãn, tôi thấy bọn chúng đang hì hục khiêng súng ống, đạn dược xuống bờ sông chất lên xuồng và có vẻ như đang chờ đợi để vượt sông? Tôi làm chỉ huy đơn vị Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù (ĐĐ2TSND) này hơn 5 năm, là đơn vị mà Đại Tá Trần Quốc Lịch - Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù (LĐT/LĐ2ND) đặt cho một cái tên mỹ miều là “đầu trâu mặt ngựa” vì hầu hết các ông thần bán trời không mời thiên lôi quy tụ về đây quậy tới bến, đánh giặc gan dạ, liều lĩnh và tinh ranh như ma quỉ. Đánh nhau với địch thù “trên cơ “ và xem trò chơi như đùa giỡn với tử thần và khi được nghĩ dưỡng quân, về phép trong thành phố thì hay kiếm chuyện ăn quỵt phá quán là chuyện thường như cơm bữa… Nhiều trường hợp vi phạm kỷ luật nặng nề, Trung Đội Trưởng không giải quyết nổi phải giải giao lên cho tôi, thì các “ông thiên lôi ba búa” này lại tỏ ra khúm núm, khoanh tay, gãi đầu gãi tai ca “bài con cá sống vì nước, em sống còn là ở Đại Uý“ rất ư là “giáo khoa thư hiếu để, Lương Sơn Hảo Hớn” ăn năn hối cải, tội nghiệp quá đi thôi với nỗi oan thị Mầu…! Tuy vậy tôi chỉ phạt nhẹ rồi tha và vài ba ngày sau thì chính mấy “ông cố nội” này lại làm chuyện khác còn động trời hơn lần trước, nhất quá tam…! Tôi gom lại cho đủ các “hảo hớn lục lâm thảo khấu” rồi lập thành một toán xâm nhập đặc biệt thả vào hậu tuyến của địch để “lập công chuộc tội”…! Tôi cư xử “thân thương” dễ dãi với thuộc cấp rồi bị họ lừa gạt dài dài… khiến tôi sinh ra nghi ngờ đủ thứ và nhiều lần suýt bị treo áo, lột lon vì cả tin thuộc cấp!
Nay có lệnh ngưng bắn, tức là cấm cả đôi bên động binh, mà chính mắt tôi đã nhìn thấy bọn chúng chuẩn bị vượt sông, thì không còn gì nghi ngờ nữa là giặc vi phạm điều luật “Hiệp Định Ngưng Bắn” và do dự là một yếu tử của binh pháp đối với kế sách “Tiên Hạ Thủ Vi Cường!" Tôi gọi ngay Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù (BCH/LĐ1ND) xin cung ứng khẩn cấp 20 cuộn kẽm gai (Concertina) và 100 hỏa tiễn chống Tank M72… Thời gian này, ĐĐ2TSND đang tăng phái hành quân cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (LĐ1ND). Tôi bố trí 3 trung đội tiền phương của ĐĐTS2ND đóng án ngữ cách bờ sông Thạch Hãn khoảng 50 mét. Từ bên phải của chúng tôi kéo dài lên tới cầu Thạch Hãn do Tiểu Đoàn Biệt Động Quân (TĐBĐQ) từ Vùng IV tăng cường, phía sau lưng là Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (TĐ1ND) dưới quyền Trung Tá Lê Hồng chỉ huy. Nếu địch cố tình vi phạm lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định Paris tấn tới lấn đất giành dân thì khoảng cách giữa ta với địch chỉ có 50 mét ngắn ngủi và nếu cứ để yên cho chúng ngang nhiên sang sông thì tuyến của TS2ND bị chọc thủng và BCH/LĐ1ND sẽ bị đe dọa ngay! Quả thật như tôi đã cảnh giác, nhưng phía quân ta không được động thủ vì phải tuyệt đối tuân lệnh ngưng bắn?!
Vào lúc nửa đêm, Bắc Quân âm thầm vượt tuyến sang sông không một tiếng động, và sáng ngày hôm sau, 29-1-1973, thì ta và địch “bốn mắt nhìn nhau trào máu họng” ta với địch chỉ cách nhau có 10 mét! Làm gì nhau? Chẳng ai làm gì nhau, chỉ còn nhìn nhau cười ruồi…! Tôi cảm thấy hụt hẩng, thua trí chúng nó và cũng vì “tuyệt đối thi hành lệnh cấp trên” mà bị bọn quỉ quyệt Bắc Cộng này chơi cho một vố “kèo trên” tức cành hông!
Tới buổi trưa Đại Đội 2 Công Binh Nhảy Dù (ĐĐ2CBND) mang tới những cuộn kẽm gai, tôi liền cho lệnh binh sĩ căng ngay kẽm gai phân ranh giới, quân địch cũng tham gia phụ kéo kẽm gai phân ranh giới với sự hoan hỷ biểu đồng tình rất vui và rất vui với rộn rã tiếng cười, giọng nói rặc Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ huyên náo trộn lẫn vào nhau, ì xèo ỏm tỏi trong niềm vui là từ nay cả hai bên Bắc - Nam chúng ta không còn có ai là “kẻ thù địch” nữa…! Hòa bình mà! Hòa Bình thì phải sống chung với nhau chứ, chân không còn đạp mìn, đầu không còn đội pháo, không còn nhả đạn, đấm đá, đâm lút lưỡi lê vào thân thể nhau khi xáp lá cà cận chiến, không còn cơm gạo sấy với nước hố bom nữa… và bây giờ là thức ăn rau cải xanh tươi, gà vịt, thuỷ sản được tiếp tế hằng ngày… Phe “địch” đem cốm lương khô của Trung Cộng trao đổi gạo sấy, thịt hộp của phe ta, thuốc lào Bắc Việt trao đổi “hữu nghị” với thuốc lá Ruby Quân Tiếp Vụ, trà Lạng Sơn trao đổi với cà phê gói Ration C Mỹ quốc. Anh anh tôi tôi trong niềm vui tưởng như chiến tranh đã lùi vào quá khứ xa xôi nào đó, và cả hai bên quên đi chỉ vài ngày trước đã tận tình rình rập lẫn nhau để "hạ thủ vô tình" vì Ta và Địch! Tôi đứng đó, chứng kiến và quan sát hiện trạng, nhưng tận trong tâm trí vui buồn, mừng lo lẫn lộn.
Vui vì thấy dưới hòa nhưng chắc gì trên thuận. Trên ở đây là bọn chóp bu, ma đầu Chính Trị Bộ Hà Nội tráo trở, lường gạt vẫn còn ôm mộng xâm lăng, cố chiếm cho bằng được phần đất nước giàu có mầu mở miền Nam. Mừng vì cuối cùng “Hiệp Ước Hòa Bình” đã được 4 bên ký kết! Nhưng cũng lo lắng vì chắc gì bọn chúng tôn trọng, bởi Cộng Sản đã định nghĩa:” hòa bình là khi Tư Bản bị tiêu diệt!"
Tại Paris hoa lệ mà các phe phái Quốc - Cộng bàn cãi chỉ vì hình dáng cái bàn hội nghị vuông hay tròn mà phải đôi co, kèn cựa cải vả suốt gần cả hai năm, trong hai năm đã có biết bao nhiêu xương máu, thân xác đã ngã gục trước họng súng ngút ngàn thù hận của cả hai bên, trong khi những thương thuyết “da” vẫn chểm chệ an bình ngồi salon phì phà điếu Cigar và nốc rượu Vine ở Paris!
Nếu phải sống chung đề huề với nhau thì ai sẽ hoá ai, ai sẽ thu tóm ai, quân cờ nào thua thiệt và bọn chóp bu Hà Nội với những thủ đoạn gian xảo, quỉ quyệt, lừa đảo vô nhân tính đang lom khom cúc cung thi hành theo chỉ thị của các quan thầy Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa là phải nhuộm đỏ toàn thể Á Châu và thế giới chứ không riêng gì Việt Nam.
Hai ngày sau, tôi ra lệnh cho Trung Đội Chỉ Huy, dọn đất bằng phẳng để làm một sân bóng chuyền, làm xong cho binh lính ngỏ lời mời phía bên kia qua bên này đấu bóng chuyền giao hữu Bắc - Nam cho vui. Khai trương sân bóng chuyền, lính ta đóng kịch với những trận đấu hào hứng la hét cổ võ của mấy ông chầu rìa đứng ngoài sân, sau đó gà nướng, sà lách trộn dầu dấm bày biện ra sân, khiến cho bên kia Bắc Quân chỉ biết đứng nhìn thèm thuồng nuốt nước miếng, nhỏ dãi!
Ngày 1-2-1973, tức chỉ mới sau năm ngày Hiệp Định Paris về Chiến Tranh Việt Nam được phổ biến trên toàn thế giới, phái đoàn Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên hình thành, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến cũng lần lượt đến Việt Nam và trú ngụ ở khách sạn Hương Giang - Huế. Chúng tôi, bên ta bên địch sống kề cận nhau, tay bắt tay, trao đổi với nhau thân mật những chuyện bá vơ rồi cuối cùng bên kia đồng ý gửi những cao thủ bóng chuyền sang đấu giao hữu với phe ta. Như vậy nhịp “Cầu Ô Thước” đã được bắc qua hàng rào kẽm gai concertina để cho “Ngưu Lang” Trinh Sát 2 Nhảy Dù “tao ngộ” với “Chức Nữ” Việt Cộng răng hô mã tấu thi nhau nâng, banh đập bóng bình bịch, đùng rầm, bốp chát… Hai phe Nam - Bắc chầu rìa cổ võ la ó, vỗ tay chan chát vang dội cả một góc trời !!! Mỗi lần sau khi thi đấu xong, không cần biết thắng bại, phe ta khoản đãi phe địch một chầu cháo vịt còn nóng hổi rất ư là “đồng bào” một bọc 100 trứng chính hiệu "made in Âu Cơ". Các ông quan to, mặt bự của Uỷ Ban Liên Hiệp Quân Sự 4 Bên (UBLHQS4B), các vị lớn có chức của Uỷ Ban Kiểm Soát Đình Chiến (ICCS) đang ở đâu, hãy đến đây mà chụp ảnh quay phim, rồi trở về căn phòng có máy lạnh mà múa bút, khoe khoang, viết phét, tuyên bố láo lếu…!
Cuộc vui của nền “ngoại giao bóng chuyền” giữa ĐĐ2TSND và Đại Đội Trinh Sát Đặc Công của SĐ 325CSBV (Sư Đoàn 325B Cộng Sản Bắc Việt) chỉ kéo dài được 5 ngày, thì một biến cố dở cười dở mếu bất ngờ xảy đến, suýt chút nữa tôi bị truy tố ra tòa án quân sự vì tội bất tuân thượng lệnh!
Chẳng là vào ngày 3-2-1973 nhầm ngày 30 Tết Quý Sửu và cũng đúng là ngày sinh nhật 28 tuổi của tôi. Trước đó mấy ngày, tôi đã căn dặn Thượng Sĩ Nhất Tá - Hạ Sĩ Quan tiền trạm ở Huế ra chợ đặt cho tôi hai con heo quay cỡ lớn nhất, hậu cứ Sài Gòn đả gửi ra cho chúng tôi 10 con khô vịt và bánh mì, bánh hỏi rau sống để lần đầu tiên đơn vị ăn Tết trong hòa bình, vai kề vai bên cạnh kẻ thù không đội trời chung mà không có tiếng súng. Trưa nay, trận đấu bóng chuyền giao hữu đôi bên chấm dứt, một buổi tiệc tất niên linh đình được bày ra sân, ta với địch ôm eo ếch nhẩy "sol đố mì" cùng với hai can rượu đế Cầu Bạch Hổ. Tan tiệc dã chiến, ai về nhà nấy với lời chúc Tết của tôi và nhớ là ngưng giao chiến trong hai ngày Tết, vì bắt đầu ngày mai mùng một Tết, các binh sĩ sẽ lần lượt thay phiên nhau nhận sự vụ lệnh nghỉ phép về Sài Gòn thăm gia đình 10 ngày.
Ngày mùng một Tết Nhâm Tý (4-2-1973) trôi qua trong cái lạnh giá buốt của vùng địa đầu giới tuyến. Tết này con không về được để ngắm những cây mai vàng mà Ba đã trồng trước ngõ, không ăn được món giò thủ mà Mẹ đã bó bằng những sợi dây lạt dừa, con chỉ ngồi đây mở radio ấp chiến lược nghe Hoàng Oanh hát:
Tôi hướng đôi mắt về phía bên kia bờ Bắc trong lo âu hồi hộp canh chừng biến cố địch phản thùng như vụ Tết Mậu Thân!
Khoảng gần nửa đêm thì Hạ Sĩ Nhất Sơn Nhung, gốc Khmer, trung tín của tôi trình báo:
- Thưa Đại Úy, Trung Sĩ Nhất Triết muốn xin gặp Đại Úy.
Lê Văn Triết tốt nghiệp trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế cuối năm 1971, vốn là “dân Bắc Kỳ di cư” chính cống, sau một năm chết sống với Toán 3 Viễn Thám, được thăng cấp Trung Sĩ Nhất và làm Toán Phó cho Thiếu Úy Đoàn Kiên Em. Tôi đưa tay ra hiệu cho Triết vào gặp tôi và hỏi:
- Có chuyện gì quan trọng không mà anh muốn gặp tôi giờ này?
- Thưa Đại Úy, thật tình đối đế lắm, tôi mới xin gặp Đại Úy để giải quyết dùm cho tôi việc khó xử này!
- Anh cứ nói đi?
- Thưa đại úy, ... Gia đình bố mẹ của em là dân miền Bắc di cư năm 1954 lúc em khoảng độ một hai tuổi. Gia đình người chú ruột của em còn bị kẹt ở lại miền Bắc với 4 người con, trong số này có hai người con trai bị xung vào bộ đội năm 1972 tên là Châu và Phong, một người phục vụ ở Đại Đội Đặc Công thuộc Sư Đoàn 325 và người nữa là bộ đội ở Trung Đội Phòng Không của Trung Đoàn 95 cũng trực thuộc SĐ 325CSBV. Định mệnh run rủi trớ trêu, ba anh em họ chúng em gặp lại nhau qua những trận đấu bóng chuyền “ngoại giao bóng chuyền” vừa qua do Đại Uý tổ chức và sau trận đấu trưa ngày 30 Tết, chúng em nhận ra nhau và hai anh em họ của em quyết ở lại với phe ta, nhất định không trở về lại bên kia dù có bị xử bắn tại chỗ hay bất cứ hình phạt nào của cả hai bên dành cho hai đứa em họ của em!
Tôi cho mời hai anh em họ Triết vào. Trước mặt tôi, Triết hỏi hai người em họ Phong và Châu và cả hai trả lời:
- Trước khi vào Nam, Bố có dặn là phải tìm anh (Triết)… và tìm cách liên lạc với anh cho bằng được... Có lẽ Ông Bà Nội linh thiêng đã phù hộ cho giòng họ nhà mình mà tụi em đã nhận ra anh trong những lần “đánh bóng trao” vừa qua …!
Nhìn vào ánh mắt lo âu bối rối của Triết, tôi thấy phảng phất nét van lơn cầu khẩn xin giúp đỡ. Triết thương tình anh em họ chú bác ruột thịt đã cùng nhau trải qua một đoạn đường ấu thơ trong thời kỳ “cải cách ruộng đất” máu thấm đẫm ruộng vườn của cha ông để lại, Triết mong đợi ở tôi có giải pháp giúp đỡ mà tình thật rất khó giải quyết sao cho êm xuôi? Tôi ngồi trầm ngâm như một pho tượng đá không biết phải nói sao với Triết ! Sau ngưng bắn, lệnh cấp trên là không được nhận hồi chánh viên, đầu thú, hay trong trường hợp chạm súng bất đắc dĩ bắt được tù binh, ngay chính cả hàng binh thì phải “giải giao tại chổ” có nghĩa bắn bỏ, không báo cáo, không giải giao.
Trong trường hợp của Triết tôi phải làm sao đây? Tôi không thể vâng lệnh cấp trên làm như thế, vì là người sinh trưởng tại miền Nam hiền hoà hấp thụ nền giáo dục đề cao nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, hướng thượng cho dù đang cầm súng chiến đấu bảo vệ dân lành và phần đất miền Nam trù phú, tôi cũng không thể đánh mất lương tri cũng là lương tâm để ra lệnh bắn bỏ 2 cán binh Bắc Quân là anh em họ với Triết trong tình cảnh chẳng đặng đừng này được, và tôi biết chính cái nhất điểm lương tâm này sẽ đeo đuổi dày vò tâm thức mình mình suốt cuộc đời còn lại, nếu tôi ra lệnh cho binh sĩ thi hành lệnh “giải giao tại chỗ”! Tôi nói:
- Thôi các cậu về ngủ đi, sáng mai tất cả lên gặp tôi... Tôi sẽ có quyết định.
Trong căn bạt hành quân dã chiến được ngụy trang hoa lá cành và nằm dưới mặt đất khoảng một mét, Châu và Phong gầy gò ngồi xổm khúm núm dưới đất bên cạnh Triết, đầu cúi gầm, thỉnh thoảng ngước nhìn lên với đôi mắt lo âu, e dè, sợ sệt, vẻ mặt xanh xao vì ăn uống thiếu dinh dưỡng lâu ngày…! Tôi ngồi trên cái chõng tre gọi Sơn Nhung:
- Anh pha cho tôi bốn ly cà phê sữa “cứt chồn” nóng!
Rồi quay sang nói với Châu và Phong:
- Tối qua, tôi đã nghe thấy sự tình của ba anh em cậu… Hai cậu nhất định ở lại với Triết, không trở về lại đơn vị của mình bên kia nữa dù có phải chết cũng không về. Thế bây giờ tôi không chấp nhận và dùng vũ lực để đẩy hai cậu qua hàng rào kẽm gai, nếu hai cậu kháng cự hoặc chạy trở qua bên này, tôi ra lệnh bắn hai cậu ngay tại chỗ, thì hai cậu nghĩ sao?
Phong từ tốn trả lời:
- Thưa Đại Úy, tụi em cũng biết nếu trở về thì sớm muộn gì cũng chết với chúng nó, vì em nghe lóm được chúng nó kháo nhau rằng chẳng còn bao lâu nữa mình cũng sẽ tới Sài Gòn. Tụi em nghĩ thà chết ở đây có mặt của anh Triết, ít ra tụi em cũng có được một nấm mộ và một cái bia, để mai kia bố mẹ tụi em biết được tụi em đang ở đâu. Còn nếu Đại Úy tha cho thì tụi em được sống với anh Triết trong tình thương yêu đùm bọc có nhau mà xây dựng lại cuộc đời mới…
Thật ra là từ đêm qua tôi đã có quyết định rồi nhưng còn do dự không nói ra, bây giờ tôi không quan tâm tới những lời chân thật cầu khẩn của Phong và Châu mà chỉ hơi giật mình vì câu nói: “Chúng nó kháo nhau rằng chẳng còn bao lâu nữa cũng tới Sài Gòn.” Như vậy là quá rõ ràng ý đồ của Hà Nội qua Hiệp Định Paris mà chúng mới ký xong chưa tròn 1 tháng? Thật là bọn giảo quyệt với kế gian: giai đoạn đầu vừa đàm vừa đánh, giai đoạn sau ký kết là giả hòa để lấn chiếm, chiếm đất giành dân rồi tấn tới chiếm luôn cả nước…! Tin tức này tuy chỉ nghe từ một lời tâm sự của cán binh Việt Cộng tép riu, nhưng rất quan trọng trên tầng chiến lược. Chắc chắn thượng cấp của tôi cũng hiểu được “thế hạ phong” của mình trong tình trạng đình chiến da beo trộn trấu như thế này: Nam Quân chi giữ được thành, Bắc Quân giữ đất đai lãnh thổ, núi rừng, sông biển, ruộng đồng thì cái chuyện phản bội bất ngờ đánh úp của đối phương dễ như trở bàn tay. Tôi ngưng dòng suy nghĩ và nói tiếp với họ:
- Thôi các cậu trở về vị trí đóng quân đi, trong thời gian chờ đợi lệnh cấp trên, tôi giao trách nhiệm cho Triết, Chuẩn Úy Em và cả Toán 3 Viễn Thám, ngay bây giờ tôi không thể quyết định được gì cả, ngày nào hay ngày nấy, nếu có chuyện gì bất trắc xãy ra thì chính các cậu sẽ nhận lãnh hậu quả trước tiên. Có vậy thôi.
Tôi gọi ngay BCH/LĐ1ND đang trú đóng ven quốc lộ 1, phía đông La Vang khoảng vài ba cây số và xin trình diện Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lê Văn Ngọc (Ngọc Kiến) ngay ngày hôm nay và cũng xin có sự hiện diện của Trung Tá Nguyễn Văn Be đang kiêm Trưởng Phòng 2 SĐND. Lời yêu cầu được chấp thuận ngay. Lúc 5 giờ chiều ngày mùng 2 Tết Quý Sữu (4-2-1973), một chiếc M113 chở tôi đến BCH /LĐ1ND khi nhị vị này đã có mặt. Tôi chỉ trình vắn tắt gọn gàng câu chuyện “hồi chánh” của Châu và Phong cùng sự liên hệ ruột thịt với Trung Sĩ Nhất Triết TS2ND, đồng thời cũng bày tỏ nỗi khó xử của tôi giữa tình và lý trong nghịch cảnh này.
Trung Tá Be lên tiếng trước:
- Cái vụ này cả tôi và Đại Tá Ngọc (LĐT/ LĐ1ND) cũng không dám quyết định gì lúc này được. Trước đây thì dễ ợt rồi, không có gì phải bàn cãi, trình lên trình xuống mất công, chỉ làm biên bản giải giao qua Bộ Chiêu Hồi là phủi tay. Đại Tá nghĩ sao?
Trầm ngâm suy nghĩ một lát, Đại Tá Ngọc LĐT/ LĐ1ND chậm rải trả lời:
- Chà... cái vụ này hơi rắc rối à nha! Xử theo tình thì Đại Úy Út lãnh cán búa, xử theo lý thì... thì... thất nhân tâm quá ! Thôi hay là anh Be thử gọi hỏi Lê Lợi (Tướng Lê Quang Lưỡng - Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) và xin quyết định xem sao?
Trung Tá Be rời ghế ngồi, bước vào căn hầm kế cận, nơi đặt máy siêu tần số Hot Line để liên lạc riêng với Tư Lệnh. Năm phút sau Ông trở ra chỉ với một câu nói ngắn gọn: “chẳng lôi thôi gì cả, giải giao tại chỗ”! Như thế là xong, lệnh là lệnh, cái lệnh dù có có thất nhân tâm mấy chăng nữa cũng là quân lệnh và kỷ luật! Bài toán nan giải giữa lý và tình của tôi đã được Tướng Tư Lệnh cho đáp số thì chẳng còn gì để phân giải nữa…!
Ngồi trên tháp chiếc thiết vận xa M113 trở về vị trí đóng quân, tâm hồn lãng đãng mù sa không biết phải giải quyết ra sao, khi mà những đôi mắt van lơn khẩn cầu của ba anh em Triết - Châu - Phong như đang chập chờn lãng vãng trên cành cây ngọn cỏ ven đường về. Trải qua bao nhiêu chiến trận, tôi đã từng lấy mạng sống của mình trêu đùa với định mệnh, cái sống cái chết như nhau trong những lúc dầu sôi lửa bỏng, giờ đây trước hai kẻ thù với thân thể gầy còm, da xanh xao với ánh mắt hiền lành e dè, sợ sệt đang khép nép quay đầu về với Ta, mà cảnh ngộ đưa đẩy tôi phải ra lệnh giết chết họ thì quả thật là trớ trêu? Tôi suy tư: “Ta không phải là định mệnh, là thần chết để gặt lưỡi hái tử thần lấy đi sinh mệnh của Phong và Châu trong hoàn cảnh này éo le đáng thương này…!"
Đêm mùng 2 Tết, tôi ngồi một mình bên chai Remy Martell với cái đùi vịt quay nồng mùi dầu ẩm mốc của ba Tàu Chợ Lớn, trong căn chòi dã chiến chỉ cách Bắc Quân khoảng 50 mét. Trước khi đi ngủ, tôi đã tự quyết định là chẳng làm gì cả. Lại một lần nữa tôi đang trêu đùa với định mệnh ! Tôi cứ làm thinh, làm ngơ coi như chẳng có chuyện gì xãy ra cả, nhưng tự trong đáy lòng có nỗi ngỗn ngang không biết xử trí như thế nào cho hợp lý hợp tình với hai “ông cố nội” báo cô này…?
May mắn thay, trưa ngày 6-2-1973 nhằm ngày mùng 4 Tết, ĐĐ2TS được lệnh di chuyển về phía Nam Sông Bồ (An Lỗ - Huế), Tiểu Đoàn Biệt Động Quân sẽ trám tuyến cho ĐĐ2TSD nội trong ngày. Nhá nhem chiều hôm đó bầu đoàn thê tử của tôi phải lội bộ hơn 3 cây số ra Quốc Lộ 1 để quân xa GMC chở về An Lỗ... dĩ nhiên phải cõng theo hai ông Việt Cộng ốm o gầy còm xanh như tàu lá chuối này ! Cá tính của tôi là khi suy tính một chuyện gì mà chưa tìm ra một giải pháp để thực thi thì trong dạ cứ nôn nao khó chịu, nhưng lại cứ nhởn nha cù cưa không dứt khoát liền, nhưng khi có giải kết rồi thì ... trời cản cũng không được !
ĐĐ2TSD được nhét vào phòng tuyến giữa TĐ3ND và TĐ9ND dọc từ trên núi xuống tận cầu An Lỗ, phía Nam Sông Bồ, bờ sông phía Bắc là Trung Đoàn 95 của SĐ325CSBV chiếm giữ chỉ cách Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐND hơn một kí lô mét về hướng Tây - Nam. Cả hai bạn - địch cùng tắm giặt nấu ăn cùng một dòng sông oan nghiệt chia cách đôi bờ!
Sau hai ngày phối trí quân tạm ổn định, tôi gọi Trung Sĩ Nhất Triết trình diện:
- Tôi thông cảm tâm trạng khó xử của cậu, tôi tạm thời giải quyết như thế này. Tôi biết gia đình và cha mẹ của cậu đang sống trong giáo sứ Khiết Tâm - Thủ Đức, một giáo xứ có tới 100% người Bắc di cư 1954, cha của cậu hiện là thầy bốn, thầy năm gì đó của giáo xứ, có nhiều uy tín với Linh Mục chánh xứ tại đây, có phải đúng như vậy không?
- Dạ đúng như vậy thưa Đại Úy.
- Vậy thì như thế này. Tôi cho cậu đi phép 2 tuần, ứng trước cho cậu 2 tháng lương, tôi cũng cấp giấy phép (giả) cho Châu và Phong cùng đi với cậu. Cậu có nhiệm vụ đưa hai đứa em nó về giao cho Cha cậu, và xin Cha cậu liệu bề cưu mang tụi nó vì là cháu con... Tôi nghĩ với uy tín và công quả, mục vụ của ông đối với giáo xứ , Cha cậu có thể giải quyết được chuyện này, và lại nữa với tình ruột thịt chú bác như Cha…Ông có thể sẽ hết lòng lo cho tụi nó. Lo như thế nào tôi không biết, nhưng tôi chắc chắn rằng ông sẽ lo được…? Khi về đến nhà, cậu phải xé bỏ và đốt ngay hai cái giấy phép giả này, và nhớ một điều tối quan trọng là căn dặn gia đình nói rằng hai tụi nó là lao công đào binh của SĐ3BB với hai cái tên mới. Chỉ có vậy thôi, cậu đã hiểu và thông suốt những gì tôi căn dặn chưa? Tôi tin ở cậu chuyện này, nhớ rằng nếu có chuyện tráo trở, đổ bể sau này, tôi sẽ là người chịu trách nhiệm trực tiếp và chuyện tốt lành trở thành xấu dữ... sẽ đem tai họa cho tôi và anh em cậu, cậu hiểu không?
Triết nghe qua và như ngẩn người ra, có lẽ Triết không bao giờ nghĩ tôi lại đi đến quyết định liều lĩnh như vậy ? Một quyết định khá táo bạo gần như trêu đùa với định mệnh về tương lai và số phận của mình! Triết lí nhí cám ơn và trở về nơi đóng quân của toán.
Hai ngày sau họ đã ở Thủ Đức, và ba tháng sau Triết báo cho tôi biết, Châu và Phong đã trở thành dân quân Xã Khiết Tâm thuộc Quận Thủ Đức với giá 100,000$ (một trăm ngàn đồng tiền VNCH -1973) cho mỗi người.
Tôi nghĩ trong mỗi một con người đều có “cái thước” để đo chính lương tâm của mình, dài hay ngắn, căng hay chùng là tùy vào mức độ lượng khoan dung, tha thứ của mỗi cá nhân. Khoan dung, tha thứ tuy chưa chắc và có thể không thay đổi được hận thù địch - bạn trong quá khứ, nhưng nó có khả năng mở rộng cho tương lai những con đường tốt đẹp khác? Tôi đã không thi hành nghiêm khắc quân lệnh “giải giao tại chỗ” mà còn âm thầm lén lút giúp cho hai cán binh Cộng Sản Bắc Việt một con đường sống, một đời sống mới. Trong trường hợp và tình cảnh của Triết, Phong, Châu thật đáng được giúp theo lương tâm là người đã khó mà làm Người (viết Hoa) vốn tự là nhân phẩm của Người ngay lành lại còn khó hơn vạn lần sinh ra…? Tôi chẳng có gì phải thù hận họ và cần thiết đến nỗi phải mang Phong-Châu bắn bỏ bằng một phát đạn thù! Nếu có thù hận chăng và qui tội đám chóp bu quyền bính lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Bắc Việt chúng nó là: Hồ, Đồng, Chinh, Duẫn, Giáp… đã tha cái học thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản là thứ rác rưởi lịch sử khốn nạn và rước giặc vào nhà giết dân lành, cướp của, dày xéo quê hương điêu linh, chinh chiến hoang tàn, đỗ nát ...!
Trái tim của tôi có chỗ bao dung, uẩn lương dành cho những kẻ thù đã sa cơ thất thế muốn tìm một con đường sống lương thiện và sự tha thứ! Chẳng những tôi đã tha cho Phong, Châu mà còn giúp cho họ làm lại cuộc đời vốn dĩ đã không may trong suốt quãng đời tuổi trẻ dưới chế độ dã man cùng cực tại miền Bắc nước Việt Nam. Lý lẽ từ ái và độ thương cảm tha nhân của tôi “bảo” tôi phải làm như vậy, dù lý trí có phân vân, đắn đo hơn thiệt khi tính cá cược thân phận của mình.
Cuối tháng 10 năm 1973, tôi được lệnh trình diện Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù để làm phúc trình về vụ việc “tha Tào” này vì tin tức đã thấu đến tai của An Ninh Quân Đội (ANQĐ). Trong cuối bản phúc trình tôi đã viết: “… hận thù như một viên đá đè nặng trong hồn tôi! Trong tình huống đáng thương tâm của tha nhân và của anh em Triết, Phong, Châu! Tôi quyết định vứt bỏ sự hận thù sinh tử trên chiến trường Quốc - Cộng để tha chết và mở cho họ con đường sống kể từ sau khi có lệnh ngưng bắn, chẳng phải là dễ chịu hơn không. Tại sao tôi cứ phải để một viên đá vô hình như sự tàn bạo đè nặng lên tâm hồn vốn tự có nhiều nhân ái trong những trường hợp phải tha hay phải giết?" Sau đó, tôi không thấy phòng ANQĐ và Phòng Nhì của SĐND đá động gì tới nữa vụ việc này nữa? Điều này cũng tự “nói” lên tính cách Nhân Đạo (viết Hoa) của cơ quan hữu trách và cấp chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Thuở nhỏ, Ông Ngoại tôi cứ căn dặn con cháu rằng: “… ai cho con một chén cơm, manh áo thì các con, cháu phải nhớ ơn suốt đời, nhưng con cho ai chén cơm, manh áo thì con, cháu phải suốt đời quên đi…!" Tôi đã vi phạm quân lệnh tha cho Châu và Phong tôi đã quên, nhưng Châu, Phong không quên. Tết Bính Thìn năm 1976, tôi đang bị giam giữ ở trại tù tập trung Hốc Môn, thì tôi nhận được một thùng quà Tết nặng tới 3 ký lô, người gửi là Lê Thanh Triết - Thủ Đức gồm có: một 1 tấm chăn dầy, 1 ký thịt bò khô xào mắm ruốc xã ớt, bàn chải kem đáng răng, sà bông cô ba, trộn lẫn trong ruốc là hai tờ giấy 50 đồng (tiền Hồ) kèm theo dòng chữ: ”tụi em sẽ cố gắng lo cho anh 'đi' càng sớm càng tốt.” Tuy rất đỗi mừng vui vì bị giam tù mà nhận được quà của người thân không bao giờ nghĩ tới, nhưng tôi cũng rất bình thản với “đi đâu” và dù có đi được hay không tôi dám nghĩ tới, chỉ thở “khì” một tiếng thì ra nhân - quả là đây!
Bốn tháng sau, tức tháng 5 năm 1976 tôi vượt ngục (trại tù Long Giao) rồi đi tới Xã Khiết Tâm tìm nhà ông Lâm, cha của Triết cũng là chú ruột của Châu và Phong nhờ liên lạc với gia đình cha mẹ tôi ở Tiền Giang. Bấy giờ anh em Châu, Phong đã có giấy tờ hợp lệ sau “giải phóng”, họ đi làm phụ hồ cho những nhà thầu xây cất nhà cửa. Riêng Triết đã có vợ và hai con, vợ chồng cùng đi làm chung ở một hãng dệt tại Thủ Đức. Cuộc sống bình thường của họ cứ thế mà trôi dần với thời gian, giờ đã gần nửa thế kỷ, 44 năm từ sau 1975 rồi còn gì…
Nhân dịp cuối năm và còn mấy ngày nữa là Tết Kỷ Hợi 2019 và cũng như thường lệ mọi năm, từ Việt Nam họ đều gửi thiệp chúc Tết cho gia đình tôi tại Mỹ, trong thiệp thư thăm hỏi không quên nhắc lại câu nói mà tôi đã từng nói với họ khi xưa: “tha thứ cho kẻ làm bạn tổn thương là món quà dành cho họ…”
Quà Tết hằng năm của vợ chồng Triết và hai em Phong, Châu luôn là 3 hũ mắm tôm chà Gò Công, loại mắm mà tôi ưa thích nhất, 3 con thỏ nhà phơi khô ướp xã ớt được bọc gói cẩn thận, dấu trong các hành lý của người thân từ Việt Nam sang Mỹ thăm thân nhân. Cuộc sống là tiếng vọng của luật nhân quả? Những gì tôi “gửi” đi nay quay trở lại, những gì tôi đã gieo trồng nay tôi đang gặt hái, những điều tôi cho đi nay tôi nhận lại và quan trọng trong tình người tôi đang nhận lại những trái tim chân tình yêu thương vượt qua thù hận của người bên kia chiến tuyến đã có một thời bắn giết nhau trong quá khứ, nhưng cảnh ngộ trớ trêu xưa như một định mệnh an bày qua biến thiên thời thế đổi thay mà Tôi với gia đình Triết, Phong, Châu lại thương mến nhau như cùng một mái ấm gia đình tình thâm.
Năm cũ sắp hết, năm mới sắp đến, những cành đào sau nhà đã trổ nụ, tôi chợt nhớ đến quê tôi xứ Gò Công nước mặn đồng chua với những cánh đồng lúa chín ngút ngàn, những vườn mãng cầu serie chín đỏ mọng. Khi Đông tàn Xuân đến, hằng chục chiếc ghe bầu khẩm nặng với dưa hấu, dừa xiêm ghé bến sông nước đục ngầu chảy xiết, chợ búa tất nập ngược xuôi, người mua kẻ bán, trong đó có Mẹ và Chị tôi, buôn tảo bán tần nuôi năm chị em tôi ăn học và như còn nghe văng vẳng đâu đây tiếng của Ông Ngoại dặn dò Mẹ tôi: “Nghèo Mà Biết Cho Đi Là Giàu Hơn Tất Cả, Giàu Mà Không Muốn Bỏ Ra Là Thiếu Tận Cùng."
Tôi đã giúp cho Châu và Phong một cuộc sống mới. Giờ đây tôi được một cuộc sống mới bình an.
Trong Thánh Kinh đã có đề cập: Khi ấy đám đông người vây quanh và chuẩn bị liệng đá vào người đàn bà phạm tội ngoại tình, họ xách mé hỏi Chúa Jesu:
- Chúng tôi sẽ ném đá vào người đàn bà phạm tội ngoại tình kia, còn ông là con Thiên Chúa thì ông sẽ cư xử như thế nào?
Chúa Jesu bình thản nhìn vào đám đông cuồng nộ và hỏi:
- Ai là người trong số các ngươi không có tội thì hãy cầm đá và ném người phụ nữ kia?
Bắt đầu những người lớn tuổi trong đám đông bỏ đi… và người đàn bà phạm tội ngoại tình vẫn còn ngồi lại… Chúa ôn tồn nói với bà:
- Này người phụ nữ kia hãy đi đi và đừng làm tội nữa, ta không bắt tội bà đâu…!
Chúa Jesu nhân từ và vạn pháp trong thế gian này vận hành như nhiên, tuần hoàn và nhân - quả vô thuỷ và vô chung. Trăm năm đời người quá ngắn ngủi, nhìn lại có khác chi bọt bèo, cát bụi với trăm năm, ngàn năm …
Sự sống hiện tiền chân thật với nhu cầu căn bản của sinh vật để sinh sống, ngoài ra tất cả : lý tưởng, trí thức, học thuật, giáo dục, văn hoá, triết lý, kỹ thuật, khoa học, chính trị, kinh tế, thương mãi, …là sản phẩm trí óc của loài người chúng ta sản sinh ra “nó”, rồi theo “nó” và bị vướng mắc “nó” , rồi làm nô lệ cho “nó” và cũng chính “nó” lại làm “thang điểm” phẩm chất cho cuộc sống của chúng ta “hướng thượng”…?
Ôi,… hệ luỵ biết bao giờ mới thôi? Và trong giới hạn của vấn đề Việt Nam tuyệt nhiên cũng theo luật Nhân - Quả, kẻ gieo gió sẽ gặt bão. Tôi đang chứng kiến từng ngày huỷ thể của đảng Cộng Sản Bắc Việt. Ai bảo tôi có thể “xử huề” với chúng, bọn đồ tể giết dân, cướp của, dâng bán đất nước - dân tộc Việt Nam cho Tàu cộng?
Trong Thánh Kinh cũng có “viết”: Lấy mắt trả mắt, lấy răng đền răng…?
Phải không?
Này mẹ có nghe xôn xao lá thay màu,
Này mẹ có nghe chim đua hót trên cành,
Này mẹ thấy chăng ngoài sân kia đàn bướm đang nhởn nhơ đùa vui!
Này mẹ thấy chăng cây mai trước sân nhà nụ vàng ấp yêu như cô gái đương thì,
Này mẹ thấy chăng trời trong xanh,
Đàn én đang nhởn nhơ dập dìu…
Mẹ hay chăng mùa xuân vui đã sang,
Mẹ hay chăng khổ đau xưa đã chìm
Mẹ thấy chăng phố vui chân người về!
Mẹ thấy chăng thôn xóm rực đèn treo…
Nụ cười bỗng tươi trên môi đã khô cằn,
Mẹ mừng thấy con xa xôi đã quay về,
Mẹ mừng mái tranh từ bao năm quạnh vắng đã có thêm người thân…
Rộn ràng tiếng ca cô con gái bên nhà.
Hồng hồng nét môi khi thấy bóng trai về,
Dập dìu áo hoa từ thôn trên làng dưới đi rước Xuân về nhà.
(Xuân Về Với Mẹ - Nhật Ngân)
Này mẹ có nghe chim đua hót trên cành,
Này mẹ thấy chăng ngoài sân kia đàn bướm đang nhởn nhơ đùa vui!
Này mẹ thấy chăng cây mai trước sân nhà nụ vàng ấp yêu như cô gái đương thì,
Này mẹ thấy chăng trời trong xanh,
Đàn én đang nhởn nhơ dập dìu…
Mẹ hay chăng mùa xuân vui đã sang,
Mẹ hay chăng khổ đau xưa đã chìm
Mẹ thấy chăng phố vui chân người về!
Mẹ thấy chăng thôn xóm rực đèn treo…
Nụ cười bỗng tươi trên môi đã khô cằn,
Mẹ mừng thấy con xa xôi đã quay về,
Mẹ mừng mái tranh từ bao năm quạnh vắng đã có thêm người thân…
Rộn ràng tiếng ca cô con gái bên nhà.
Hồng hồng nét môi khi thấy bóng trai về,
Dập dìu áo hoa từ thôn trên làng dưới đi rước Xuân về nhà.
(Xuân Về Với Mẹ - Nhật Ngân)
Theo thời gian…rồi cũng qua đi, tôi lớn dần cho đến khi lên trung học, rồi đại học, dường như tôi không còn cái cảm giác Xuân về Tết đến như lúc còn ấu thơ với gia đình và cho đến khi vào lính ! Sau 2 năm học tập, tôi luyện vất vả ở Quân Trường Võ Bị Đà Lạt, tốt nghiệp ra trường lại đúng vào Tết Mậu Thân (tháng 12 cuối năm 1967 - đầu năm 1968) là “cái“ Tết tang thương đẫm máu và nước mắt trên khắp mọi nẻo đường đất nước…! Có cần nhắc lại ở đây hay không? Dạ thưa không! Vì có lẽ ai ai đang sống trong thời điểm lúc bấy giờ cũng biết, đã trải qua và chắc không thể quên những ngày Tết bi thảm đó…! Ôi … Tết Mậu Thân với bao nỗi chết như vết thương hằn sâu vào tiềm thức của mọi người thì làm sao quên cho được? Ngay ngày Tết mà bọn khát máu, man di mọi rợ Việt Cộng năng nổ, xông xáo, lùng sục đạp cửa từng nhà dân lành vào đêm giao thừa, sáng mùng một Tết và cả thời gian sau đó tại vùng chúng chiếm đóng, chúng tróc nã, lôi cả cha mẹ vợ con, bạn bè, thân bằng quyến thuộc ra trước cửa nhà rồi qui tội và hành quyết tại chỗ, mặc cho tiếng kêu gào thảm thiết của người thân …! Làm sao tôi quên được cái Tết đó, cái Tết mà tôi vừa mới “đăng quan” thiếu úy sữa, tưởng rằng ”áo gấm về làng vinh quy bái tổ” thì mùng hai, mùng ba Tết lại phải đi gác hòm cho vị Tiểu Đoàn Trưởng của đơn vị và vị Đại Đội Trưởng khác của Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù - Lực Lượng Đặc Biệt (TĐ91BCD/LLĐB) vừa ngã quỵ trên đường phố Độc Lập - Thị Xã Nha Trang đúng vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, đơn vị mà tôi mới vừa đáo nhậm chưa tới mười ngày! Thời gian sau … cứ iên tiếp là những cái Tết: Kỷ Dậu (1969), Canh Tuất (1970), Tân Hợi (1971), Nhâm Tý (1972) với giày saut mòn gót, áo trận bạc màu thay mới đã bao lần, miệt mài hành quân tới tận rừng sâu núi thẳm săn lùng, giết giặc, chí cho tới những mặt trận khốc liệt trên khắp vùng chiến thuật …
Chẳng có dưa hành thịt mỡ, chẳng có bánh chưng bánh tét mà chỉ có gạo sấy thịt hộp ba lát, rau rừng mọc dại dọc theo bờ suối, ven sông dưới chân đồi…
Cũng chẳng có rượu nếp than hay rượu đậu nành là đặc sản của Gò Công - Mỹ Tho quê tôi, mà chỉ có nước hố bom chứa sẵn trong bidong… Không còn nghe tiếng pháo đón giao thừa quen thuộc, thay vào đó là tiếng rít của hỏa tiễn 122 ly, đại pháo 130ly và đạn AK47 veo véo bay ngang qua đầu mà thân còn đang lội bì bõm dưới giao thông hào, hố cá nhân lầy lội bùn sình, lấp xấp nước … Chiến Tranh mà! Chiến tranh sát hại sinh linh, chiến tranh tàn phá vạn vật thì huống hồ chi tuổi trẻ của tôi. Chiến tranh cũng không cần biết Xuân Hạ Thu Đông, Tết nhất sinh nhật giỗ kỵ gì hết, cũng không phân biệt già trẻ bé lớn, chỉ có bắn giết lẫn nhau để đoạt chiến thắng với bất cứ giá nào, dù cái giá phải trả bằng hằng vạn mạng sống của người dân lành vô tội!
Tết Quý Sửu năm 1973:
Hiệp định Paris hoặc hiệp định Paris 1973 (ở miền Nam còn gọi là Hiệp định Ba Lê) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Cộng Hoà Miền Nam và Việt Nam Cộng Hoà ký kết tại Paris ngày 27-1-1973. Về mặt công khai thì đàm phán có 4 bên và nội dung chính thức của bản hiệp định cơ bản dựa trên Tuyên bố 10 điểm ngày 08-05-1969 của phái đoàn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, nhưng việc đàm phán để đạt được nội dung hiệp định lại chủ yếu được quyết định bởi các phiên họp kín giữa 2 đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Hoa Kỳ... (Trích Từ Báo Chính Luận Sài Gòn Phát Hành).
Ngày 29 Tháng 1 Năm 1973:
Ngày thứ bảy 27 tháng 1 năm 1973, ngày lịch sử bốn bên tham chiến cùng ký kết ngưng bắn, tái lập hòa bình cho cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam sau hơn hai mươi năm chiến cuộc huynh đệ tương tàn! Ngày lịch sử này nhằm ngày 24 tháng chạp năm Nhâm Tý. Tết Quý Sửu! Đêm hôm trước là ngày đưa ông táo về trời, mà trong đầu cứ phải nhớ những tọa độ để xin Pháo Binh bắn phản pháo. Sáng ngày 28-1-1973, tôi đứng trên một ngọn đồi thấp bên bờ Nam sông Thạch Hãn - Quảng Trị, dùng ống nhòm quan sát bên kia bờ Bắc. Thường thì chúng (quân Cộng Sản Bắc Việt) ẩn nấp sâu, lặn kỹ, không thấy một bóng dáng nào di chuyển trên mặt đất, tăng (tank) pháo (cannon, đại bác, súng lớn) thì được ngụy trang bằng lưới chụp, cài kết cành lá như bụi cây di động để tránh những cặp mắt cú vọ của phi cơ quan sát OV10 thường trực từ ở đâu đó trên bầu trời săn lùng, phát hiện và chỉ điểm mục tiêu để cho quân ta thanh toán. Hôm nay thì hoàn toàn khác, lệnh ngưng bắn toàn phần đã được ban hành lúc 0 giờ đêm hôm qua, chiếu theo điều luật của Hiệp Định Paris, sự việc ngưng bắn phải được cả hai bên Bắc - Nam tuân thủ là không được động binh hay di chuyển quân, không được vô cớ nổ súng khi chạm mặt dù đang ở trong thế cài răng lược.
Xuyên qua làn sương không dầy trôi lãng đãng trên sông Thạch Hãn, tôi thấy bọn chúng đang hì hục khiêng súng ống, đạn dược xuống bờ sông chất lên xuồng và có vẻ như đang chờ đợi để vượt sông? Tôi làm chỉ huy đơn vị Đại Đội 2 Trinh Sát Nhảy Dù (ĐĐ2TSND) này hơn 5 năm, là đơn vị mà Đại Tá Trần Quốc Lịch - Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù (LĐT/LĐ2ND) đặt cho một cái tên mỹ miều là “đầu trâu mặt ngựa” vì hầu hết các ông thần bán trời không mời thiên lôi quy tụ về đây quậy tới bến, đánh giặc gan dạ, liều lĩnh và tinh ranh như ma quỉ. Đánh nhau với địch thù “trên cơ “ và xem trò chơi như đùa giỡn với tử thần và khi được nghĩ dưỡng quân, về phép trong thành phố thì hay kiếm chuyện ăn quỵt phá quán là chuyện thường như cơm bữa… Nhiều trường hợp vi phạm kỷ luật nặng nề, Trung Đội Trưởng không giải quyết nổi phải giải giao lên cho tôi, thì các “ông thiên lôi ba búa” này lại tỏ ra khúm núm, khoanh tay, gãi đầu gãi tai ca “bài con cá sống vì nước, em sống còn là ở Đại Uý“ rất ư là “giáo khoa thư hiếu để, Lương Sơn Hảo Hớn” ăn năn hối cải, tội nghiệp quá đi thôi với nỗi oan thị Mầu…! Tuy vậy tôi chỉ phạt nhẹ rồi tha và vài ba ngày sau thì chính mấy “ông cố nội” này lại làm chuyện khác còn động trời hơn lần trước, nhất quá tam…! Tôi gom lại cho đủ các “hảo hớn lục lâm thảo khấu” rồi lập thành một toán xâm nhập đặc biệt thả vào hậu tuyến của địch để “lập công chuộc tội”…! Tôi cư xử “thân thương” dễ dãi với thuộc cấp rồi bị họ lừa gạt dài dài… khiến tôi sinh ra nghi ngờ đủ thứ và nhiều lần suýt bị treo áo, lột lon vì cả tin thuộc cấp!
Nay có lệnh ngưng bắn, tức là cấm cả đôi bên động binh, mà chính mắt tôi đã nhìn thấy bọn chúng chuẩn bị vượt sông, thì không còn gì nghi ngờ nữa là giặc vi phạm điều luật “Hiệp Định Ngưng Bắn” và do dự là một yếu tử của binh pháp đối với kế sách “Tiên Hạ Thủ Vi Cường!" Tôi gọi ngay Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù (BCH/LĐ1ND) xin cung ứng khẩn cấp 20 cuộn kẽm gai (Concertina) và 100 hỏa tiễn chống Tank M72… Thời gian này, ĐĐ2TSND đang tăng phái hành quân cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (LĐ1ND). Tôi bố trí 3 trung đội tiền phương của ĐĐTS2ND đóng án ngữ cách bờ sông Thạch Hãn khoảng 50 mét. Từ bên phải của chúng tôi kéo dài lên tới cầu Thạch Hãn do Tiểu Đoàn Biệt Động Quân (TĐBĐQ) từ Vùng IV tăng cường, phía sau lưng là Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (TĐ1ND) dưới quyền Trung Tá Lê Hồng chỉ huy. Nếu địch cố tình vi phạm lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định Paris tấn tới lấn đất giành dân thì khoảng cách giữa ta với địch chỉ có 50 mét ngắn ngủi và nếu cứ để yên cho chúng ngang nhiên sang sông thì tuyến của TS2ND bị chọc thủng và BCH/LĐ1ND sẽ bị đe dọa ngay! Quả thật như tôi đã cảnh giác, nhưng phía quân ta không được động thủ vì phải tuyệt đối tuân lệnh ngưng bắn?!
Vào lúc nửa đêm, Bắc Quân âm thầm vượt tuyến sang sông không một tiếng động, và sáng ngày hôm sau, 29-1-1973, thì ta và địch “bốn mắt nhìn nhau trào máu họng” ta với địch chỉ cách nhau có 10 mét! Làm gì nhau? Chẳng ai làm gì nhau, chỉ còn nhìn nhau cười ruồi…! Tôi cảm thấy hụt hẩng, thua trí chúng nó và cũng vì “tuyệt đối thi hành lệnh cấp trên” mà bị bọn quỉ quyệt Bắc Cộng này chơi cho một vố “kèo trên” tức cành hông!
Tới buổi trưa Đại Đội 2 Công Binh Nhảy Dù (ĐĐ2CBND) mang tới những cuộn kẽm gai, tôi liền cho lệnh binh sĩ căng ngay kẽm gai phân ranh giới, quân địch cũng tham gia phụ kéo kẽm gai phân ranh giới với sự hoan hỷ biểu đồng tình rất vui và rất vui với rộn rã tiếng cười, giọng nói rặc Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ huyên náo trộn lẫn vào nhau, ì xèo ỏm tỏi trong niềm vui là từ nay cả hai bên Bắc - Nam chúng ta không còn có ai là “kẻ thù địch” nữa…! Hòa bình mà! Hòa Bình thì phải sống chung với nhau chứ, chân không còn đạp mìn, đầu không còn đội pháo, không còn nhả đạn, đấm đá, đâm lút lưỡi lê vào thân thể nhau khi xáp lá cà cận chiến, không còn cơm gạo sấy với nước hố bom nữa… và bây giờ là thức ăn rau cải xanh tươi, gà vịt, thuỷ sản được tiếp tế hằng ngày… Phe “địch” đem cốm lương khô của Trung Cộng trao đổi gạo sấy, thịt hộp của phe ta, thuốc lào Bắc Việt trao đổi “hữu nghị” với thuốc lá Ruby Quân Tiếp Vụ, trà Lạng Sơn trao đổi với cà phê gói Ration C Mỹ quốc. Anh anh tôi tôi trong niềm vui tưởng như chiến tranh đã lùi vào quá khứ xa xôi nào đó, và cả hai bên quên đi chỉ vài ngày trước đã tận tình rình rập lẫn nhau để "hạ thủ vô tình" vì Ta và Địch! Tôi đứng đó, chứng kiến và quan sát hiện trạng, nhưng tận trong tâm trí vui buồn, mừng lo lẫn lộn.
Vui vì thấy dưới hòa nhưng chắc gì trên thuận. Trên ở đây là bọn chóp bu, ma đầu Chính Trị Bộ Hà Nội tráo trở, lường gạt vẫn còn ôm mộng xâm lăng, cố chiếm cho bằng được phần đất nước giàu có mầu mở miền Nam. Mừng vì cuối cùng “Hiệp Ước Hòa Bình” đã được 4 bên ký kết! Nhưng cũng lo lắng vì chắc gì bọn chúng tôn trọng, bởi Cộng Sản đã định nghĩa:” hòa bình là khi Tư Bản bị tiêu diệt!"
Tại Paris hoa lệ mà các phe phái Quốc - Cộng bàn cãi chỉ vì hình dáng cái bàn hội nghị vuông hay tròn mà phải đôi co, kèn cựa cải vả suốt gần cả hai năm, trong hai năm đã có biết bao nhiêu xương máu, thân xác đã ngã gục trước họng súng ngút ngàn thù hận của cả hai bên, trong khi những thương thuyết “da” vẫn chểm chệ an bình ngồi salon phì phà điếu Cigar và nốc rượu Vine ở Paris!
Nếu phải sống chung đề huề với nhau thì ai sẽ hoá ai, ai sẽ thu tóm ai, quân cờ nào thua thiệt và bọn chóp bu Hà Nội với những thủ đoạn gian xảo, quỉ quyệt, lừa đảo vô nhân tính đang lom khom cúc cung thi hành theo chỉ thị của các quan thầy Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa là phải nhuộm đỏ toàn thể Á Châu và thế giới chứ không riêng gì Việt Nam.
Hai ngày sau, tôi ra lệnh cho Trung Đội Chỉ Huy, dọn đất bằng phẳng để làm một sân bóng chuyền, làm xong cho binh lính ngỏ lời mời phía bên kia qua bên này đấu bóng chuyền giao hữu Bắc - Nam cho vui. Khai trương sân bóng chuyền, lính ta đóng kịch với những trận đấu hào hứng la hét cổ võ của mấy ông chầu rìa đứng ngoài sân, sau đó gà nướng, sà lách trộn dầu dấm bày biện ra sân, khiến cho bên kia Bắc Quân chỉ biết đứng nhìn thèm thuồng nuốt nước miếng, nhỏ dãi!
Ngày 1-2-1973, tức chỉ mới sau năm ngày Hiệp Định Paris về Chiến Tranh Việt Nam được phổ biến trên toàn thế giới, phái đoàn Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên hình thành, Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến cũng lần lượt đến Việt Nam và trú ngụ ở khách sạn Hương Giang - Huế. Chúng tôi, bên ta bên địch sống kề cận nhau, tay bắt tay, trao đổi với nhau thân mật những chuyện bá vơ rồi cuối cùng bên kia đồng ý gửi những cao thủ bóng chuyền sang đấu giao hữu với phe ta. Như vậy nhịp “Cầu Ô Thước” đã được bắc qua hàng rào kẽm gai concertina để cho “Ngưu Lang” Trinh Sát 2 Nhảy Dù “tao ngộ” với “Chức Nữ” Việt Cộng răng hô mã tấu thi nhau nâng, banh đập bóng bình bịch, đùng rầm, bốp chát… Hai phe Nam - Bắc chầu rìa cổ võ la ó, vỗ tay chan chát vang dội cả một góc trời !!! Mỗi lần sau khi thi đấu xong, không cần biết thắng bại, phe ta khoản đãi phe địch một chầu cháo vịt còn nóng hổi rất ư là “đồng bào” một bọc 100 trứng chính hiệu "made in Âu Cơ". Các ông quan to, mặt bự của Uỷ Ban Liên Hiệp Quân Sự 4 Bên (UBLHQS4B), các vị lớn có chức của Uỷ Ban Kiểm Soát Đình Chiến (ICCS) đang ở đâu, hãy đến đây mà chụp ảnh quay phim, rồi trở về căn phòng có máy lạnh mà múa bút, khoe khoang, viết phét, tuyên bố láo lếu…!
Cuộc vui của nền “ngoại giao bóng chuyền” giữa ĐĐ2TSND và Đại Đội Trinh Sát Đặc Công của SĐ 325CSBV (Sư Đoàn 325B Cộng Sản Bắc Việt) chỉ kéo dài được 5 ngày, thì một biến cố dở cười dở mếu bất ngờ xảy đến, suýt chút nữa tôi bị truy tố ra tòa án quân sự vì tội bất tuân thượng lệnh!
Chẳng là vào ngày 3-2-1973 nhầm ngày 30 Tết Quý Sửu và cũng đúng là ngày sinh nhật 28 tuổi của tôi. Trước đó mấy ngày, tôi đã căn dặn Thượng Sĩ Nhất Tá - Hạ Sĩ Quan tiền trạm ở Huế ra chợ đặt cho tôi hai con heo quay cỡ lớn nhất, hậu cứ Sài Gòn đả gửi ra cho chúng tôi 10 con khô vịt và bánh mì, bánh hỏi rau sống để lần đầu tiên đơn vị ăn Tết trong hòa bình, vai kề vai bên cạnh kẻ thù không đội trời chung mà không có tiếng súng. Trưa nay, trận đấu bóng chuyền giao hữu đôi bên chấm dứt, một buổi tiệc tất niên linh đình được bày ra sân, ta với địch ôm eo ếch nhẩy "sol đố mì" cùng với hai can rượu đế Cầu Bạch Hổ. Tan tiệc dã chiến, ai về nhà nấy với lời chúc Tết của tôi và nhớ là ngưng giao chiến trong hai ngày Tết, vì bắt đầu ngày mai mùng một Tết, các binh sĩ sẽ lần lượt thay phiên nhau nhận sự vụ lệnh nghỉ phép về Sài Gòn thăm gia đình 10 ngày.
Ngày mùng một Tết Nhâm Tý (4-2-1973) trôi qua trong cái lạnh giá buốt của vùng địa đầu giới tuyến. Tết này con không về được để ngắm những cây mai vàng mà Ba đã trồng trước ngõ, không ăn được món giò thủ mà Mẹ đã bó bằng những sợi dây lạt dừa, con chỉ ngồi đây mở radio ấp chiến lược nghe Hoàng Oanh hát:
Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Gió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
Hoa cùng cười tia nắng vàng son
Lũ ong lên đường cánh tung tròn
Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi
Muốn yêu anh vác cầy trên đồi
Hay là yêu chiến sĩ ngàn nơi...!
(Hoa Xuân - Phạm Duy)
Gió Xuân đưa lá vàng xuôi nguồn
Hoa cùng cười tia nắng vàng son
Lũ ong lên đường cánh tung tròn
Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi
Muốn yêu anh vác cầy trên đồi
Hay là yêu chiến sĩ ngàn nơi...!
(Hoa Xuân - Phạm Duy)
Tôi hướng đôi mắt về phía bên kia bờ Bắc trong lo âu hồi hộp canh chừng biến cố địch phản thùng như vụ Tết Mậu Thân!
Khoảng gần nửa đêm thì Hạ Sĩ Nhất Sơn Nhung, gốc Khmer, trung tín của tôi trình báo:
- Thưa Đại Úy, Trung Sĩ Nhất Triết muốn xin gặp Đại Úy.
Lê Văn Triết tốt nghiệp trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế cuối năm 1971, vốn là “dân Bắc Kỳ di cư” chính cống, sau một năm chết sống với Toán 3 Viễn Thám, được thăng cấp Trung Sĩ Nhất và làm Toán Phó cho Thiếu Úy Đoàn Kiên Em. Tôi đưa tay ra hiệu cho Triết vào gặp tôi và hỏi:
- Có chuyện gì quan trọng không mà anh muốn gặp tôi giờ này?
- Thưa Đại Úy, thật tình đối đế lắm, tôi mới xin gặp Đại Úy để giải quyết dùm cho tôi việc khó xử này!
- Anh cứ nói đi?
- Thưa đại úy, ... Gia đình bố mẹ của em là dân miền Bắc di cư năm 1954 lúc em khoảng độ một hai tuổi. Gia đình người chú ruột của em còn bị kẹt ở lại miền Bắc với 4 người con, trong số này có hai người con trai bị xung vào bộ đội năm 1972 tên là Châu và Phong, một người phục vụ ở Đại Đội Đặc Công thuộc Sư Đoàn 325 và người nữa là bộ đội ở Trung Đội Phòng Không của Trung Đoàn 95 cũng trực thuộc SĐ 325CSBV. Định mệnh run rủi trớ trêu, ba anh em họ chúng em gặp lại nhau qua những trận đấu bóng chuyền “ngoại giao bóng chuyền” vừa qua do Đại Uý tổ chức và sau trận đấu trưa ngày 30 Tết, chúng em nhận ra nhau và hai anh em họ của em quyết ở lại với phe ta, nhất định không trở về lại bên kia dù có bị xử bắn tại chỗ hay bất cứ hình phạt nào của cả hai bên dành cho hai đứa em họ của em!
Tôi cho mời hai anh em họ Triết vào. Trước mặt tôi, Triết hỏi hai người em họ Phong và Châu và cả hai trả lời:
- Trước khi vào Nam, Bố có dặn là phải tìm anh (Triết)… và tìm cách liên lạc với anh cho bằng được... Có lẽ Ông Bà Nội linh thiêng đã phù hộ cho giòng họ nhà mình mà tụi em đã nhận ra anh trong những lần “đánh bóng trao” vừa qua …!
Nhìn vào ánh mắt lo âu bối rối của Triết, tôi thấy phảng phất nét van lơn cầu khẩn xin giúp đỡ. Triết thương tình anh em họ chú bác ruột thịt đã cùng nhau trải qua một đoạn đường ấu thơ trong thời kỳ “cải cách ruộng đất” máu thấm đẫm ruộng vườn của cha ông để lại, Triết mong đợi ở tôi có giải pháp giúp đỡ mà tình thật rất khó giải quyết sao cho êm xuôi? Tôi ngồi trầm ngâm như một pho tượng đá không biết phải nói sao với Triết ! Sau ngưng bắn, lệnh cấp trên là không được nhận hồi chánh viên, đầu thú, hay trong trường hợp chạm súng bất đắc dĩ bắt được tù binh, ngay chính cả hàng binh thì phải “giải giao tại chổ” có nghĩa bắn bỏ, không báo cáo, không giải giao.
Trong trường hợp của Triết tôi phải làm sao đây? Tôi không thể vâng lệnh cấp trên làm như thế, vì là người sinh trưởng tại miền Nam hiền hoà hấp thụ nền giáo dục đề cao nhân phẩm, văn hoá, đạo đức, hướng thượng cho dù đang cầm súng chiến đấu bảo vệ dân lành và phần đất miền Nam trù phú, tôi cũng không thể đánh mất lương tri cũng là lương tâm để ra lệnh bắn bỏ 2 cán binh Bắc Quân là anh em họ với Triết trong tình cảnh chẳng đặng đừng này được, và tôi biết chính cái nhất điểm lương tâm này sẽ đeo đuổi dày vò tâm thức mình mình suốt cuộc đời còn lại, nếu tôi ra lệnh cho binh sĩ thi hành lệnh “giải giao tại chỗ”! Tôi nói:
- Thôi các cậu về ngủ đi, sáng mai tất cả lên gặp tôi... Tôi sẽ có quyết định.
Trong căn bạt hành quân dã chiến được ngụy trang hoa lá cành và nằm dưới mặt đất khoảng một mét, Châu và Phong gầy gò ngồi xổm khúm núm dưới đất bên cạnh Triết, đầu cúi gầm, thỉnh thoảng ngước nhìn lên với đôi mắt lo âu, e dè, sợ sệt, vẻ mặt xanh xao vì ăn uống thiếu dinh dưỡng lâu ngày…! Tôi ngồi trên cái chõng tre gọi Sơn Nhung:
- Anh pha cho tôi bốn ly cà phê sữa “cứt chồn” nóng!
Rồi quay sang nói với Châu và Phong:
- Tối qua, tôi đã nghe thấy sự tình của ba anh em cậu… Hai cậu nhất định ở lại với Triết, không trở về lại đơn vị của mình bên kia nữa dù có phải chết cũng không về. Thế bây giờ tôi không chấp nhận và dùng vũ lực để đẩy hai cậu qua hàng rào kẽm gai, nếu hai cậu kháng cự hoặc chạy trở qua bên này, tôi ra lệnh bắn hai cậu ngay tại chỗ, thì hai cậu nghĩ sao?
Phong từ tốn trả lời:
- Thưa Đại Úy, tụi em cũng biết nếu trở về thì sớm muộn gì cũng chết với chúng nó, vì em nghe lóm được chúng nó kháo nhau rằng chẳng còn bao lâu nữa mình cũng sẽ tới Sài Gòn. Tụi em nghĩ thà chết ở đây có mặt của anh Triết, ít ra tụi em cũng có được một nấm mộ và một cái bia, để mai kia bố mẹ tụi em biết được tụi em đang ở đâu. Còn nếu Đại Úy tha cho thì tụi em được sống với anh Triết trong tình thương yêu đùm bọc có nhau mà xây dựng lại cuộc đời mới…
Thật ra là từ đêm qua tôi đã có quyết định rồi nhưng còn do dự không nói ra, bây giờ tôi không quan tâm tới những lời chân thật cầu khẩn của Phong và Châu mà chỉ hơi giật mình vì câu nói: “Chúng nó kháo nhau rằng chẳng còn bao lâu nữa cũng tới Sài Gòn.” Như vậy là quá rõ ràng ý đồ của Hà Nội qua Hiệp Định Paris mà chúng mới ký xong chưa tròn 1 tháng? Thật là bọn giảo quyệt với kế gian: giai đoạn đầu vừa đàm vừa đánh, giai đoạn sau ký kết là giả hòa để lấn chiếm, chiếm đất giành dân rồi tấn tới chiếm luôn cả nước…! Tin tức này tuy chỉ nghe từ một lời tâm sự của cán binh Việt Cộng tép riu, nhưng rất quan trọng trên tầng chiến lược. Chắc chắn thượng cấp của tôi cũng hiểu được “thế hạ phong” của mình trong tình trạng đình chiến da beo trộn trấu như thế này: Nam Quân chi giữ được thành, Bắc Quân giữ đất đai lãnh thổ, núi rừng, sông biển, ruộng đồng thì cái chuyện phản bội bất ngờ đánh úp của đối phương dễ như trở bàn tay. Tôi ngưng dòng suy nghĩ và nói tiếp với họ:
- Thôi các cậu trở về vị trí đóng quân đi, trong thời gian chờ đợi lệnh cấp trên, tôi giao trách nhiệm cho Triết, Chuẩn Úy Em và cả Toán 3 Viễn Thám, ngay bây giờ tôi không thể quyết định được gì cả, ngày nào hay ngày nấy, nếu có chuyện gì bất trắc xãy ra thì chính các cậu sẽ nhận lãnh hậu quả trước tiên. Có vậy thôi.
Tôi gọi ngay BCH/LĐ1ND đang trú đóng ven quốc lộ 1, phía đông La Vang khoảng vài ba cây số và xin trình diện Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng Lê Văn Ngọc (Ngọc Kiến) ngay ngày hôm nay và cũng xin có sự hiện diện của Trung Tá Nguyễn Văn Be đang kiêm Trưởng Phòng 2 SĐND. Lời yêu cầu được chấp thuận ngay. Lúc 5 giờ chiều ngày mùng 2 Tết Quý Sữu (4-2-1973), một chiếc M113 chở tôi đến BCH /LĐ1ND khi nhị vị này đã có mặt. Tôi chỉ trình vắn tắt gọn gàng câu chuyện “hồi chánh” của Châu và Phong cùng sự liên hệ ruột thịt với Trung Sĩ Nhất Triết TS2ND, đồng thời cũng bày tỏ nỗi khó xử của tôi giữa tình và lý trong nghịch cảnh này.
Trung Tá Be lên tiếng trước:
- Cái vụ này cả tôi và Đại Tá Ngọc (LĐT/ LĐ1ND) cũng không dám quyết định gì lúc này được. Trước đây thì dễ ợt rồi, không có gì phải bàn cãi, trình lên trình xuống mất công, chỉ làm biên bản giải giao qua Bộ Chiêu Hồi là phủi tay. Đại Tá nghĩ sao?
Trầm ngâm suy nghĩ một lát, Đại Tá Ngọc LĐT/ LĐ1ND chậm rải trả lời:
- Chà... cái vụ này hơi rắc rối à nha! Xử theo tình thì Đại Úy Út lãnh cán búa, xử theo lý thì... thì... thất nhân tâm quá ! Thôi hay là anh Be thử gọi hỏi Lê Lợi (Tướng Lê Quang Lưỡng - Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) và xin quyết định xem sao?
Trung Tá Be rời ghế ngồi, bước vào căn hầm kế cận, nơi đặt máy siêu tần số Hot Line để liên lạc riêng với Tư Lệnh. Năm phút sau Ông trở ra chỉ với một câu nói ngắn gọn: “chẳng lôi thôi gì cả, giải giao tại chỗ”! Như thế là xong, lệnh là lệnh, cái lệnh dù có có thất nhân tâm mấy chăng nữa cũng là quân lệnh và kỷ luật! Bài toán nan giải giữa lý và tình của tôi đã được Tướng Tư Lệnh cho đáp số thì chẳng còn gì để phân giải nữa…!
Ngồi trên tháp chiếc thiết vận xa M113 trở về vị trí đóng quân, tâm hồn lãng đãng mù sa không biết phải giải quyết ra sao, khi mà những đôi mắt van lơn khẩn cầu của ba anh em Triết - Châu - Phong như đang chập chờn lãng vãng trên cành cây ngọn cỏ ven đường về. Trải qua bao nhiêu chiến trận, tôi đã từng lấy mạng sống của mình trêu đùa với định mệnh, cái sống cái chết như nhau trong những lúc dầu sôi lửa bỏng, giờ đây trước hai kẻ thù với thân thể gầy còm, da xanh xao với ánh mắt hiền lành e dè, sợ sệt đang khép nép quay đầu về với Ta, mà cảnh ngộ đưa đẩy tôi phải ra lệnh giết chết họ thì quả thật là trớ trêu? Tôi suy tư: “Ta không phải là định mệnh, là thần chết để gặt lưỡi hái tử thần lấy đi sinh mệnh của Phong và Châu trong hoàn cảnh này éo le đáng thương này…!"
Đêm mùng 2 Tết, tôi ngồi một mình bên chai Remy Martell với cái đùi vịt quay nồng mùi dầu ẩm mốc của ba Tàu Chợ Lớn, trong căn chòi dã chiến chỉ cách Bắc Quân khoảng 50 mét. Trước khi đi ngủ, tôi đã tự quyết định là chẳng làm gì cả. Lại một lần nữa tôi đang trêu đùa với định mệnh ! Tôi cứ làm thinh, làm ngơ coi như chẳng có chuyện gì xãy ra cả, nhưng tự trong đáy lòng có nỗi ngỗn ngang không biết xử trí như thế nào cho hợp lý hợp tình với hai “ông cố nội” báo cô này…?
May mắn thay, trưa ngày 6-2-1973 nhằm ngày mùng 4 Tết, ĐĐ2TS được lệnh di chuyển về phía Nam Sông Bồ (An Lỗ - Huế), Tiểu Đoàn Biệt Động Quân sẽ trám tuyến cho ĐĐ2TSD nội trong ngày. Nhá nhem chiều hôm đó bầu đoàn thê tử của tôi phải lội bộ hơn 3 cây số ra Quốc Lộ 1 để quân xa GMC chở về An Lỗ... dĩ nhiên phải cõng theo hai ông Việt Cộng ốm o gầy còm xanh như tàu lá chuối này ! Cá tính của tôi là khi suy tính một chuyện gì mà chưa tìm ra một giải pháp để thực thi thì trong dạ cứ nôn nao khó chịu, nhưng lại cứ nhởn nha cù cưa không dứt khoát liền, nhưng khi có giải kết rồi thì ... trời cản cũng không được !
ĐĐ2TSD được nhét vào phòng tuyến giữa TĐ3ND và TĐ9ND dọc từ trên núi xuống tận cầu An Lỗ, phía Nam Sông Bồ, bờ sông phía Bắc là Trung Đoàn 95 của SĐ325CSBV chiếm giữ chỉ cách Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của SĐND hơn một kí lô mét về hướng Tây - Nam. Cả hai bạn - địch cùng tắm giặt nấu ăn cùng một dòng sông oan nghiệt chia cách đôi bờ!
Sau hai ngày phối trí quân tạm ổn định, tôi gọi Trung Sĩ Nhất Triết trình diện:
- Tôi thông cảm tâm trạng khó xử của cậu, tôi tạm thời giải quyết như thế này. Tôi biết gia đình và cha mẹ của cậu đang sống trong giáo sứ Khiết Tâm - Thủ Đức, một giáo xứ có tới 100% người Bắc di cư 1954, cha của cậu hiện là thầy bốn, thầy năm gì đó của giáo xứ, có nhiều uy tín với Linh Mục chánh xứ tại đây, có phải đúng như vậy không?
- Dạ đúng như vậy thưa Đại Úy.
- Vậy thì như thế này. Tôi cho cậu đi phép 2 tuần, ứng trước cho cậu 2 tháng lương, tôi cũng cấp giấy phép (giả) cho Châu và Phong cùng đi với cậu. Cậu có nhiệm vụ đưa hai đứa em nó về giao cho Cha cậu, và xin Cha cậu liệu bề cưu mang tụi nó vì là cháu con... Tôi nghĩ với uy tín và công quả, mục vụ của ông đối với giáo xứ , Cha cậu có thể giải quyết được chuyện này, và lại nữa với tình ruột thịt chú bác như Cha…Ông có thể sẽ hết lòng lo cho tụi nó. Lo như thế nào tôi không biết, nhưng tôi chắc chắn rằng ông sẽ lo được…? Khi về đến nhà, cậu phải xé bỏ và đốt ngay hai cái giấy phép giả này, và nhớ một điều tối quan trọng là căn dặn gia đình nói rằng hai tụi nó là lao công đào binh của SĐ3BB với hai cái tên mới. Chỉ có vậy thôi, cậu đã hiểu và thông suốt những gì tôi căn dặn chưa? Tôi tin ở cậu chuyện này, nhớ rằng nếu có chuyện tráo trở, đổ bể sau này, tôi sẽ là người chịu trách nhiệm trực tiếp và chuyện tốt lành trở thành xấu dữ... sẽ đem tai họa cho tôi và anh em cậu, cậu hiểu không?
Triết nghe qua và như ngẩn người ra, có lẽ Triết không bao giờ nghĩ tôi lại đi đến quyết định liều lĩnh như vậy ? Một quyết định khá táo bạo gần như trêu đùa với định mệnh về tương lai và số phận của mình! Triết lí nhí cám ơn và trở về nơi đóng quân của toán.
Hai ngày sau họ đã ở Thủ Đức, và ba tháng sau Triết báo cho tôi biết, Châu và Phong đã trở thành dân quân Xã Khiết Tâm thuộc Quận Thủ Đức với giá 100,000$ (một trăm ngàn đồng tiền VNCH -1973) cho mỗi người.
Tôi nghĩ trong mỗi một con người đều có “cái thước” để đo chính lương tâm của mình, dài hay ngắn, căng hay chùng là tùy vào mức độ lượng khoan dung, tha thứ của mỗi cá nhân. Khoan dung, tha thứ tuy chưa chắc và có thể không thay đổi được hận thù địch - bạn trong quá khứ, nhưng nó có khả năng mở rộng cho tương lai những con đường tốt đẹp khác? Tôi đã không thi hành nghiêm khắc quân lệnh “giải giao tại chỗ” mà còn âm thầm lén lút giúp cho hai cán binh Cộng Sản Bắc Việt một con đường sống, một đời sống mới. Trong trường hợp và tình cảnh của Triết, Phong, Châu thật đáng được giúp theo lương tâm là người đã khó mà làm Người (viết Hoa) vốn tự là nhân phẩm của Người ngay lành lại còn khó hơn vạn lần sinh ra…? Tôi chẳng có gì phải thù hận họ và cần thiết đến nỗi phải mang Phong-Châu bắn bỏ bằng một phát đạn thù! Nếu có thù hận chăng và qui tội đám chóp bu quyền bính lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng Sản Bắc Việt chúng nó là: Hồ, Đồng, Chinh, Duẫn, Giáp… đã tha cái học thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa Cộng Sản là thứ rác rưởi lịch sử khốn nạn và rước giặc vào nhà giết dân lành, cướp của, dày xéo quê hương điêu linh, chinh chiến hoang tàn, đỗ nát ...!
Trái tim của tôi có chỗ bao dung, uẩn lương dành cho những kẻ thù đã sa cơ thất thế muốn tìm một con đường sống lương thiện và sự tha thứ! Chẳng những tôi đã tha cho Phong, Châu mà còn giúp cho họ làm lại cuộc đời vốn dĩ đã không may trong suốt quãng đời tuổi trẻ dưới chế độ dã man cùng cực tại miền Bắc nước Việt Nam. Lý lẽ từ ái và độ thương cảm tha nhân của tôi “bảo” tôi phải làm như vậy, dù lý trí có phân vân, đắn đo hơn thiệt khi tính cá cược thân phận của mình.
Cuối tháng 10 năm 1973, tôi được lệnh trình diện Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù để làm phúc trình về vụ việc “tha Tào” này vì tin tức đã thấu đến tai của An Ninh Quân Đội (ANQĐ). Trong cuối bản phúc trình tôi đã viết: “… hận thù như một viên đá đè nặng trong hồn tôi! Trong tình huống đáng thương tâm của tha nhân và của anh em Triết, Phong, Châu! Tôi quyết định vứt bỏ sự hận thù sinh tử trên chiến trường Quốc - Cộng để tha chết và mở cho họ con đường sống kể từ sau khi có lệnh ngưng bắn, chẳng phải là dễ chịu hơn không. Tại sao tôi cứ phải để một viên đá vô hình như sự tàn bạo đè nặng lên tâm hồn vốn tự có nhiều nhân ái trong những trường hợp phải tha hay phải giết?" Sau đó, tôi không thấy phòng ANQĐ và Phòng Nhì của SĐND đá động gì tới nữa vụ việc này nữa? Điều này cũng tự “nói” lên tính cách Nhân Đạo (viết Hoa) của cơ quan hữu trách và cấp chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Thuở nhỏ, Ông Ngoại tôi cứ căn dặn con cháu rằng: “… ai cho con một chén cơm, manh áo thì các con, cháu phải nhớ ơn suốt đời, nhưng con cho ai chén cơm, manh áo thì con, cháu phải suốt đời quên đi…!" Tôi đã vi phạm quân lệnh tha cho Châu và Phong tôi đã quên, nhưng Châu, Phong không quên. Tết Bính Thìn năm 1976, tôi đang bị giam giữ ở trại tù tập trung Hốc Môn, thì tôi nhận được một thùng quà Tết nặng tới 3 ký lô, người gửi là Lê Thanh Triết - Thủ Đức gồm có: một 1 tấm chăn dầy, 1 ký thịt bò khô xào mắm ruốc xã ớt, bàn chải kem đáng răng, sà bông cô ba, trộn lẫn trong ruốc là hai tờ giấy 50 đồng (tiền Hồ) kèm theo dòng chữ: ”tụi em sẽ cố gắng lo cho anh 'đi' càng sớm càng tốt.” Tuy rất đỗi mừng vui vì bị giam tù mà nhận được quà của người thân không bao giờ nghĩ tới, nhưng tôi cũng rất bình thản với “đi đâu” và dù có đi được hay không tôi dám nghĩ tới, chỉ thở “khì” một tiếng thì ra nhân - quả là đây!
Bốn tháng sau, tức tháng 5 năm 1976 tôi vượt ngục (trại tù Long Giao) rồi đi tới Xã Khiết Tâm tìm nhà ông Lâm, cha của Triết cũng là chú ruột của Châu và Phong nhờ liên lạc với gia đình cha mẹ tôi ở Tiền Giang. Bấy giờ anh em Châu, Phong đã có giấy tờ hợp lệ sau “giải phóng”, họ đi làm phụ hồ cho những nhà thầu xây cất nhà cửa. Riêng Triết đã có vợ và hai con, vợ chồng cùng đi làm chung ở một hãng dệt tại Thủ Đức. Cuộc sống bình thường của họ cứ thế mà trôi dần với thời gian, giờ đã gần nửa thế kỷ, 44 năm từ sau 1975 rồi còn gì…
Nhân dịp cuối năm và còn mấy ngày nữa là Tết Kỷ Hợi 2019 và cũng như thường lệ mọi năm, từ Việt Nam họ đều gửi thiệp chúc Tết cho gia đình tôi tại Mỹ, trong thiệp thư thăm hỏi không quên nhắc lại câu nói mà tôi đã từng nói với họ khi xưa: “tha thứ cho kẻ làm bạn tổn thương là món quà dành cho họ…”
Quà Tết hằng năm của vợ chồng Triết và hai em Phong, Châu luôn là 3 hũ mắm tôm chà Gò Công, loại mắm mà tôi ưa thích nhất, 3 con thỏ nhà phơi khô ướp xã ớt được bọc gói cẩn thận, dấu trong các hành lý của người thân từ Việt Nam sang Mỹ thăm thân nhân. Cuộc sống là tiếng vọng của luật nhân quả? Những gì tôi “gửi” đi nay quay trở lại, những gì tôi đã gieo trồng nay tôi đang gặt hái, những điều tôi cho đi nay tôi nhận lại và quan trọng trong tình người tôi đang nhận lại những trái tim chân tình yêu thương vượt qua thù hận của người bên kia chiến tuyến đã có một thời bắn giết nhau trong quá khứ, nhưng cảnh ngộ trớ trêu xưa như một định mệnh an bày qua biến thiên thời thế đổi thay mà Tôi với gia đình Triết, Phong, Châu lại thương mến nhau như cùng một mái ấm gia đình tình thâm.
Năm cũ sắp hết, năm mới sắp đến, những cành đào sau nhà đã trổ nụ, tôi chợt nhớ đến quê tôi xứ Gò Công nước mặn đồng chua với những cánh đồng lúa chín ngút ngàn, những vườn mãng cầu serie chín đỏ mọng. Khi Đông tàn Xuân đến, hằng chục chiếc ghe bầu khẩm nặng với dưa hấu, dừa xiêm ghé bến sông nước đục ngầu chảy xiết, chợ búa tất nập ngược xuôi, người mua kẻ bán, trong đó có Mẹ và Chị tôi, buôn tảo bán tần nuôi năm chị em tôi ăn học và như còn nghe văng vẳng đâu đây tiếng của Ông Ngoại dặn dò Mẹ tôi: “Nghèo Mà Biết Cho Đi Là Giàu Hơn Tất Cả, Giàu Mà Không Muốn Bỏ Ra Là Thiếu Tận Cùng."
Tôi đã giúp cho Châu và Phong một cuộc sống mới. Giờ đây tôi được một cuộc sống mới bình an.
Trong Thánh Kinh đã có đề cập: Khi ấy đám đông người vây quanh và chuẩn bị liệng đá vào người đàn bà phạm tội ngoại tình, họ xách mé hỏi Chúa Jesu:
- Chúng tôi sẽ ném đá vào người đàn bà phạm tội ngoại tình kia, còn ông là con Thiên Chúa thì ông sẽ cư xử như thế nào?
Chúa Jesu bình thản nhìn vào đám đông cuồng nộ và hỏi:
- Ai là người trong số các ngươi không có tội thì hãy cầm đá và ném người phụ nữ kia?
Bắt đầu những người lớn tuổi trong đám đông bỏ đi… và người đàn bà phạm tội ngoại tình vẫn còn ngồi lại… Chúa ôn tồn nói với bà:
- Này người phụ nữ kia hãy đi đi và đừng làm tội nữa, ta không bắt tội bà đâu…!
Chúa Jesu nhân từ và vạn pháp trong thế gian này vận hành như nhiên, tuần hoàn và nhân - quả vô thuỷ và vô chung. Trăm năm đời người quá ngắn ngủi, nhìn lại có khác chi bọt bèo, cát bụi với trăm năm, ngàn năm …
Sự sống hiện tiền chân thật với nhu cầu căn bản của sinh vật để sinh sống, ngoài ra tất cả : lý tưởng, trí thức, học thuật, giáo dục, văn hoá, triết lý, kỹ thuật, khoa học, chính trị, kinh tế, thương mãi, …là sản phẩm trí óc của loài người chúng ta sản sinh ra “nó”, rồi theo “nó” và bị vướng mắc “nó” , rồi làm nô lệ cho “nó” và cũng chính “nó” lại làm “thang điểm” phẩm chất cho cuộc sống của chúng ta “hướng thượng”…?
Ôi,… hệ luỵ biết bao giờ mới thôi? Và trong giới hạn của vấn đề Việt Nam tuyệt nhiên cũng theo luật Nhân - Quả, kẻ gieo gió sẽ gặt bão. Tôi đang chứng kiến từng ngày huỷ thể của đảng Cộng Sản Bắc Việt. Ai bảo tôi có thể “xử huề” với chúng, bọn đồ tể giết dân, cướp của, dâng bán đất nước - dân tộc Việt Nam cho Tàu cộng?
Trong Thánh Kinh cũng có “viết”: Lấy mắt trả mắt, lấy răng đền răng…?
Phải không?
Trương Văn Út (Út Bạch Lan), K22
More:
* Những Mùa Xuân Qua - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
* Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
* Quân Trường Và Chiến Trường - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
* Những Mùa Xuân Qua - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
* Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
* Quân Trường Và Chiến Trường - Trương Văn Út K22 (Út Bạch Lan)
No comments:
Post a Comment